Nguyễn Hưng Quốc
Theo VOA,
23-03-2014
Trong sinh hoạt chính
trị thế giới từ đầu năm 2014 đến nay, sự kiện Nga xâm lược bán đảo Crimea của
Ukraine chắc chắn là sự kiện quan trọng, thu hút sự chú ý và gây nên nhiều phản
ứng nhất. Các phản ứng ấy có thể chia ra làm ba loại: Một, phê phán Nga; hai,
bênh vực Nga; và ba, dè dặt hoặc né tránh một thái độ rõ ràng dứt khoát.
Phản ứng đầu tiên chiếm đa số. Hầu hết các tổ chức siêu quốc gia
(supranational) từ Liên Hiệp Âu Châu (European Union) đến Hội Đồng Âu Châu
(Council of Europe), Hội đồng an ninh Liên Hiệp Quốc (UN Security Council),
NATO đều tuyên bố Nga vi phạm chủ quyền của Ukraine. Hầu hết các quốc gia Tây
phương cũng đều lên án hành động lấn chiếm phi pháp của Nga.
Điều đặc biệt là hầu hết
các quốc gia Đông Âu vốn tách ra từ Liên bang Xô Viết hoặc vốn thuộc khối xã hội
chủ nghĩa trước đây cũng phê phán Nga một cách gay gắt. Lithuania và Ba Lan ra
thông báo chung yêu cầu Nga phải tôn trọng chủ quyền của Ukraine. Bộ Ngoại giao
Albania cho hành động xâm chiếm Crimea của Nga là việc làm trái với luật pháp
quốc tế. Azerbaijan, Belarus, Bosnia và Herzegovina đều yêu cầu Nga phải tôn trọng
sự độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine. Tổng thống Bulgaria, Latvia và
Georgia, Bộ trưởng Ngoại giao các nước Cộng hòa Czech, Estonia, Phần Lan,
Hungary, Romania, Serbia, Liechtenstein, Lithuania, Malta, Uzbekistan, Maldova
và Montenegro, v.v… đều kêu gọi quân lính Nga rút ra khỏi Crimea và Nga phải
tôn trọng chủ quyền của nước láng giềng.
Những nước ủng hộ Nga
rất ít. Hầu như chỉ có ba nước công khai ủng hộ Nga: Cuba, Syria và Trung Quốc.
Cuba và Syria thì ra tuyên cáo ủng hộ Nga và lên án Mỹ cũng như khối NATO một
cách kịch liệt. Còn ở Trung Quốc thì, một mặt, Bộ ngoại giao kêu gọi các bên
tìm cách giải quyết tranh chấp một cách hòa bình; mặt khác, Chủ tịch Tập Cận
Bình lại điện thoại cho Putin thông báo là ông ủng hộ Nga.
Lưng chừng ở giữa là một
số nước, như Armenia, Colombia, Ấn Độ, Kazakhstan, Macedonia, Pakistan,
Slovenia, và Việt Nam: Tất cả đều bày tỏ sự “quan tâm” của họ trước sự căng thẳng
tại Crimea và kêu gọi các bên giữ bình tĩnh và tôn trọng các nguyên tắc cơ bản
của công pháp quốc tế.
Nói là ở giữa, nhưng
nhiều nước trong số này lại tỏ ra thiên vị hẳn về phía Nga. Ví dụ, trả lời câu
hỏi về quan điểm của Việt Nam trước tình hình Crimea, người phát ngôn Bộ Ngoại giao
Việt Nam Lê Hải Bình, một mặt, “hy vọng mọi vấn đề được giải quyết trong khuôn
khổ pháp luật, vì lợi ích của nhân dân Ukraine, vì hòa bình, phát triển tại khu
vực và trên thế giới”; mặt khác, lại “đề nghị Ukraine có các biện pháp bảo đảm
an ninh, an toàn tính mạng và tài sản cho cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống,
học tập và làm ăn tại Ukraine”. Lời đề nghị ấy kể ra cũng bình thường, hơn nữa,
còn chứng tỏ sự quan tâm đến những người Việt đang sinh sống và lao động tại
Ukraine, nhưng nó lại hàm ý đổ trách nhiệm về phía chính quyền Ukraine.
Việc Cuba và Syria
công khai lên tiếng bênh vực và ủng hộ hành động lấn chiếm Crimea của Nga thì
không có gì đáng ngạc nhiên. Các nhà bình luận chính trị trên thế giới quan tâm
nhiều nhất đến phản ứng của Trung Quốc. Họ đặt vấn đề: Tại sao Trung Quốc lại đồng
ý với Nga trong việc xâm lấn này?
Theo James R. Holmes,
lý do chính là Trung Quốc muốn biến hành động xâm chiếm Crimea của Nga thành một
tiền lệ trong sinh hoạt chính trị thế giới để sau đó họ có thể dùng bạo lực để
xâm chiếm Đài Loan, hơn nữa, một số quốc gia láng giềng khác ở Đông Nam Á. Thì
cũng nhân danh việc cứu giúp những người đồng chủng. Thì cũng dùng vũ lực để đặt
thế giới vào cái thế đã rồi. Nếu mọi người chấp nhận việc Nga cướp Crimea từ
tay của người Ukraine thì tại sao lại lên án Trung Quốc nếu Trung Quốc, một
ngày nào đó, đổ quân lên Đài Loan hoặc một số hòn đảo đang tranh chấp với các nước khác?
Andong Peng thì cho
Trung Quốc xem Crimea như một cái bẫy để làm cho Mỹ sa lầy vào đó và không còn
khả năng để quay lại châu Á. Với Trung Quốc, đó cũng là nơi làm tiêu hao quyền
lực mềm của Mỹ: nếu Ukraine bất lực trước Nga và Mỹ cũng như NATO không giúp được gì Ukraine trong hoàn cảnh tuyêt vọng ấy,
các nước nhỏ khác sẽ không còn tin tưởng ở Mỹ nữa.
Đó là những tính toán
chiến lược của Trung Quốc. Nhưng còn Việt Nam? Tại sao Việt Nam lại có vẻ đồng
tình với Nga? Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược thuộc Bộ Công an, cho hành động xâm lược
của Nga ở Crimea là “phù hợp với các hiệp định song phương được ký giữa Nga và
Ukraine” và “không trái với Hiến chương Liên Hợp Quốc”. Hơn nữa, ông còn cho những
đe dọa trừng phạt Nga của Mỹ và Tây phương chỉ là “chém gió”.
Trên các diễn đàn mạng,
các dư luận viên của Hà Nội cũng đồng loạt bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với việc
Nga dùng vũ lực để chiếm đóng Crimea. Họ cho đó là điều hợp lý bởi hai lý do: Một,
về phương diện lịch sử, đó vốn là đất của Nga, chỉ được Tổng bí thư Liên Xô
Nikita Khrushchev tặng cho Ukraine năm 1954; và hai, về phương diện dân số, hơn
một nửa dân số Crimea là người Nga.
Việc ủng hộ một động
thái của một nước khác, nhất là khi nước ấy lại là một cường quốc, bao giờ cũng
là một lựa chọn chính trị.
Ở đây có hai lựa chọn
chính: Một là lựa chọn đồng minh và hai là lựa chọn cách thế hành xử.
Khi Việt Nam bày tỏ sự
ủng hộ Nga, một cách mặc nhiên, họ chọn thái độ đối lập với Mỹ và Tây phương
nói chung. Trong thời Chiến tranh lạnh, đó là một chọn lựa dễ hiểu. Nhưng nó sẽ
lại trở thành khó hiểu ở thời điểm hiện nay khi Việt Nam đối diện với những
nguy cơ lớn từ phía Trung Quốc, và, theo những gì một số nhân vật lãnh đạo muốn
người ta hiểu, đang tìm mọi cách để cân bằng áp lực đến từ Trung Quốc. Nếu chiến
lược ấy có thật thì Nga chỉ là một trong những lựa chọn, nhưng đó không phải là
một lựa chọn tối ưu vì, thứ nhất, thành thực mà nói, hiện nay, trừ vũ khí
nguyên tử, Nga không còn đủ sức mạnh để có thể giúp Việt Nam thoát khỏi hiểm họa
từ Trung Quốc; và thứ hai, Nga không có lý do gì để vì Việt Nam mà phải đối đầu
với Trung Quốc.
Về phương diện cách thế
hành xử, rõ ràng Việt Nam hoàn toàn không có lợi gì, nếu không muốn nói chỉ có
hại khi ủng hộ hành động một nước lớn xâm chiếm toàn bộ hoặc một phần lãnh thổ
của một nước nhỏ khác. Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam của Úc, đã
nhận thấy điều đó khi liên hệ vụ Crimea với vụ Hoàng Sa của Việt Nam: Cả hai đều
bị một nước lớn cưỡng chiếm; và ở cả hai trường hợp, nước nhỏ và yếu hơn đành
thúc thủ, hơn nữa, càng ngày càng thúc thủ ngay cả về phương diện pháp lý.
Nhưng Hoàng Sa chỉ là
một việc thuộc về quá khứ. Vấn đề quan trọng hơn là những gì thuộc về tương
lai. Những gì xảy ra ở Hoàng Sa trước kia hoặc Crimea hiện nay cũng có thể xảy
ra ở Trường Sa hoặc bất cứ một mảnh đất nào trên lãnh thổ Việt Nam chỉ với những
lý do bâng quơ, ví dụ, đó là đất ngày xưa (ví dụ thời Bắc thuộc) thuộc Trung Quốc
hay là để bảo vệ người Hoa ở đó.
Ở Tây phương, một
trong những lý do chính để người ta phản đối hành động xâm lược của Nga ở
Crimea là vì thế. Thứ nhất, phần lớn biên giới giữa các quốc gia hiện nay không
còn trùng hợp với biên giới ngày trước, do đó, yếu tố lịch sử không còn đủ sức
thuyết phục. Ví dụ, nhân danh yếu tố lịch sử, Campuchia có thể đòi lại phần đất
thuộc phía Nam của Việt Nam hoặc Pháp có thể đòi lại toàn bộ lãnh thổ của ba nước
Việt Nam, Lào và Campuchia với lý do cả ba đều thuộc vùng Đông Dương của Pháp
(vấn đề ở đây là người ta đẩy cái gọi là lịch sử ấy đến thời nào). Thứ hai, phần
lớn biên giới các quốc gia hiện nay không còn đồng nhất với biên giới sắc tộc
và/hoặc ngôn ngữ. Nếu nhân danh yếu tố sắc tộc và ngôn ngữ để đòi chủ quyền thì
Anh có thể lấy lại đất của Úc, của Tân Tây Lan, thậm chí, của Canada và Mỹ;
Pháp có thể đánh chiếm Quebec của Canada.
Những ví dụ vừa nêu có
vẻ như quái gở. Nhưng nếu đồng ý với việc Nga chiếm Crimea thì người ta cũng đồng
thời mở ngỏ cho vô số những khả năng quái gở như vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét