Duna
Péter
Duna Péter- tác giả cuốn sách về Việt Nam “Một trăm ngàn cây số tại Việt
Nam” (Százezer kilométer Vietnamban, NXB Kossuth 1986), từng là phóng viên thường
trú ở Việt Nam của nhật báo “Tự do Nhân dân” (Népszabadság) và của Hãng Thông tấn
Hungary MTI.
Ba mươi lăm năm trước, đúng vào những ngày này,
đã nổ ra đụng độ vũ trang giữa Việt Nam và Trung Quốc (Chiến tranh biên giới Việt-Trung*),
mà chúng ta có thể bình tâm gọi là “chiến tranh”. Vào ngày 17-2-1979 Trung Quốc
đã huy động một lực lượng quân sự khổng lồ (theo các nguồn tin Phương Tây gồm 9
quân đoàn, 3 đại quân khu (phương diện quân) và vài chục sư đoàn, cùng lực lượng
không quân) để tấn công nước láng giềng Việt Nam.
Nhiều sử gia gọi sự kiện này là cuộc chiến Đông
Dương lần thứ ba (sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc chiến đấu chống
Mỹ và các đồng minh).
Tuy nhiên, những kẻ tấn công đã gặp phải một đối
thủ đáng gờm. Quân đội Việt Nam trưởng thành và thu được nhiều kinh nghiệm
trong những cuộc chiến giành độc lập dân tộc trước quân đội Mỹ và chính quyền
miền Nam, và những kinh nghiệm ấy đã được nhân lên trong cuộc chiến chống lại
những đợt tấn công của kẻ thù phương Bắc.
Xin được ghi lại trong vài dòng những hồi tưởng của
tôi liên quan tới cuộc chiến này. Tôi đến Việt Nam đầu năm 1981 trên cương vị
phóng viên chung của nhật báo “Tự do Nhân dân” (Népszabadság) và Hãng Thông tấn
Hungary MTI, khi những cuộc chiến ác liệt đã khép lại. Cũng như những người “tiền
nhiệm”, tôi dự định sẽ ở Việt Nam trong vòng 1 năm, nhưng rồi khoảng thời gian
này đã kéo dài gần 4 năm.
Tôi đã yêu đất nước và con người Việt Nam. Cho dù
thời kỳ đó người dân Việt Nam phải trải qua một giai đoạn hết sức khó khăn. Sau
những cuộc chiến dài nhiều thập kỷ chống thực dân Pháp và đế quốc Nhật, cuộc
chiến hơn mười năm chống lại quân đội Mỹ và đồng minh Nam - Việt Nam của họ khiến
người dân Việt Nam hết sức kiệt quệ cả về lực lẫn kinh tế. Trong tình trạng suy
kiệt ấy, Việt Nam đã bị tấn công từ phương Bắc.
Tôi có nhiều dịp tới vùng biên giới phía Bắc giữa
Việt Nam và Trung Quốc. Bộ Ngoại giao Việt Nam thường xuyên tổ chức những chuyến
đi tới vùng biên giới cho nhóm phóng viên ngoại quốc chỉ có vỏn vẹn vài người
lúc đó đang ở Hà Nội. Lần nào tôi cũng tham gia những chuyến đi đó, một phần vì
rất thú vị khi được thấy một miền quê ở khu vực mà một nhà báo không thể tới được
theo cách khác, mặt khác, tôi được thúc đẩy bởi động lực vĩnh cửu của một phóng
viên: tôi cần phải ở đó, bằng không nếu xảy ra điều gì quan trọng mà tôi lại chậm
chân thì...
Tôi là đại diện duy nhất của báo chí Hungary. Tôi
đi xe riêng tới Lạng Sơn, nhưng từ đó thì Bộ Ngoại giao Việt Nam hoặc quân đội
bố trí cho nhóm phóng viên phương tiện di chuyển, xe buýt hoặc Jeep và nhóm hộ
tống có vũ trang. Chúng tôi đi lên phía Bắc, về phía biên giới, qua những xóm
làng bị ném bom hoang tàn, những vùng cư dân không còn bóng người.
Đồng Đăng là thị trấn lớn cuối cùng mà chúng tôi
đi qua, đau lòng vô cùng khi thấy một thành phố chết chìm trong đổ nát. Những đạo
quân Trung Quốc khi rút lui đã cho nổ hết nhà cửa, tiêu hủy tất cả những gì có
thể ích lợi với cư dân: các toa tàu hỏa, đường ray, thiết bị trong nhà máy, đường
xá, kênh đào...
Khi không còn đường cho xe đi đi, chúng tôi xuống
xe và tiếp tục đi bộ cho đến biên giới - đôi lúc, đấy chỉ là những đường mòn hẹp
tới mức chúng tôi phải đi theo hàng một. Xung quanh chúng tôi là khu vực đã được
rà mìn. Cho đến giờ tôi vẫn còn nhớ rằng đâu đâu cũng có dòng chữ “Có mìn” viết
trên đá và những tấm biển nhỏ, cảnh báo những nơi chưa được rà mìn.
Cần phải tuân thủ nghiêm túc lời cảnh báo này -
chúng tôi đã ý thức được qua một trường hợp buồn bã. Một bận, khi chúng tôi đi
qua một đường mòn hẹp để tới đoạn biên giới Việt - Trung diễn ra trao trả tù
binh, một tiếng nổ và khói mù mịt bay lên trong khu rừng rậm khiến bầy chim
đang lượn trên những ngọn cỏ cao tới đầu người phải hoảng hốt.
Cả đoàn người sững lại, chỉ về sau chúng tôi mới
biết điều gì đã xảy ra. Sau chúng tôi là nhóm tù binh Trung Quốc gồm 50-60 người
đang đi tới điểm trao trả. Có thể là một tù binh, dù đã bị cấm, nhưng ngại tiểu
tiện trước mặt những kẻ khác, đã đi thêm vào bước vào rừng, đến khu vực cấm.
Anh ta dẫm lên một trái mìn, mìn nổ khiến anh ta cụt bàn chân. Không chết nhưng
người tù binh này cũng bị thương nặng.
Bản thân việc trao đổi
tù binh diễn ra theo một nghi thức nghiêm ngặt do hai bên tham chiến ấn định.
Tại đây đường biên giới được biểu tượng bởi một vạch vôi màu trắng, có bề rộng
bằng mu bàn tay, được quét hình chữ thập lên con đường rải bê-tông rộng chừng
5m, là nơi được tránh mọi mũi tên hòn đạn và mìn nổ. Các bạn Việt Nam lưu ý
chúng tôi bằng mọi giá đừng có bước lên đường biên, vì sẽ có cớ để bên kia coi
như một sự khiêu khích.
Tiến đến gần biên giới,
chúng tôi liếc nhìn thấy những người Hoa. Ở hai bên của con đường, các quân
nhân có vũ trang đứng làm hai hàng, trước họ là một người có vẻ như quan chức
ngoại giao vận áo kiểu Tôn Trung Sơn, bên cạnh người này là một nhóm ký giải,
phóng viên ảnh đang nhộn nhạo chuẩn bị máy quay.
Thời đó còn chưa có - ít
nhất là tại Việt Nam và Trung Quốc - loại máy quay cầm tay đa chức năng TV -
máy quay - đầu phát video - mà người quay phim ở cả hai bên đều dùng máy quay
chạy bằng pin, hoặc loại “lên dây” bằng lò xo. Cả hai bên đều rất hăng hái chụp
ảnh lẫn nhau, cố nhiên lý do không đơn thuần chỉ là sự tò mò của các nhà báo.
Trong hồ sơ lưu trữ của
cơ quan quân báo Trung Quốc có thể cũng có vài chục tấm ảnh chụp tôi thời đấy.
(Dầu sao, hơn chục năm sau, khi tôi đã chuyển sang Bắc Kinh trên cương vị phóng
viên thường trú của “Tự do Nhân dân”, chưa bao giờ có viên chức Trung Quốc nào
bảo tôi “thưa ngài, chúng tôi đã thấy ngài ở bên kia biên giới phía Nam, bên
Việt Nam”. Nói thêm là đến lúc đó các mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã
được bình thường hóa...).
Trở lại năm 1981. Tại
biên giới phía bên Việt Nam, một sĩ quan Quân đội Nhân dân đứng lên và đọc một
bài đã được viết sẵn, rồi các tù binh Trung Quốc, từng người một, đi sang phía
bên kia biên giới. Tất cả đều mặc bộ quần áo giản dị và sạch sẽ màu xanh xám,
mỗi người cầm một túi nhỏ, bên trong là những món quà.
Trong vụ trao đổi tù
binh này có một tấn tuồng gì đấy mang tính kỳ quặc và buồn bã. Nhiều tù binh
Trung Quốc, khi vừa bước qua biên giới, đã quẳng ngay túi quà với động tác
ngoạn mục. Cứ mỗi người như thế lại có hai y tá mặc áo choàng trắng tiến đến
gần, ôm lấy, dìu đi như thể bị ốm nặng - mặc dù họ hoàn toàn khỏe mạnh, được ăn
uống đầy đủ, và đây là điều mà không phải mọi người Việt đều có được trong
những thời gian đói kém ấy.
Rồi sau đó đến lượt tù
binh Việt Nam được trao trả từ phía Trung Quốc. Những người lính Việt cũng mặc
đồng phục sạch sẽ, tay cầm túi quà, nhưng không cư xử hề như một bộ phận tù
binh Trung Quốc. Ở phía Việt Nam, một sĩ quan trong Ủy ban đón tiếp ôm chầm lấy
từng người, nói “các đồng chí đã trở về quê hương”, rồi những người này
lặng lẽ lùi ra sau để nhường chỗ cho người khác.
Mỗi cuộc trao đổi tù
binh như thế kéo dài không quá một tiếng rưỡi. Sau đó chúng tôi quay trở lại
cũng trên con đường mòn chật hẹp ấy để trở lại xe, đi qua thị trấn Đồng Đăng bị
tàn phá tan hoang đượm buồn, qua các làng bản và rồi một lát đã về tới Lạng
Sơn.
(*) Tác giả viết bằng
tiếng Việt trong nguyên bản tiếng Hungary.
Nguyễn Hoàng Linh dịch
và giới thiệu, 7.02.2014- Nhịp Cầu Thế Giới Online
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét