Sơn Trung dịch, Tạp chí Văn hóa Nghệ An
Tiểu dẫn: Ngày 30/4 Chương trình so sánh
quốc tế thuộc Ngân hàng Thế giới (WB) công bố một báo cáo cập nhật, dự báo ngay
trong năm 2014 này Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế
giới. Vào thời điểm năm 2005 quy mô
nền kinh tế Trung Quốc chưa bằng một nửa nền kinh tế Mỹ.
Tuy
nhiên, đến năm 2011, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc đã tăng lên
khá nhanh, bằng 87% kinh tế Mỹ, tính theo phương pháp sức mua hàng hóa và dịch
vụ tương đương (PPP). Mặc dù, phương pháp so sánh sức mua tương đương không
phản ánh được sự giàu có của một quốc gia tính theo đầu người, Trung Quốc vẫn
là nước nghèo hơn so với Mỹ, nhưng nhiều người đã, đang nói đến sự đổi ngôi
này. Cũng trong ngày 30/4, Trung tâm nghiên cứu toàn cầu hóa (the Center for
Rechearch on Globalization-CRG) tại Montreal, Canada đã cho đăng lại trên
website globalrearch.ca bài nghiên cứu có tựa đề Trung Quốc: Những thăng trầm
và nổi lên trở lại thành cường quốc thế giới-Những bài học lịch sử(China:
Rise, Fall and Re-Emergence as a Global Power- Lessons of History) của Giáo sư James
Petras.
Chúng tôi xin giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc như là một tài liệu, một
cách nhìn, một quan điểm để tham khảo và có thể có một cái nhìn thực tế hơn về
Trung Quốc, người láng giềng đang kéo dàn khoan vào vùng biển của chúng ta.
***
Nghiên cứu về Trung Quốc như là cường quốc thế giới rất mờ nhạt
bởi các nhà sử học hướng châu Âu (Eurocentric historians) đã bóp méo hoặc bỏ
qua vai trò chi phối của Trung quốc đối với nền kinh tế thế giới trong giai
đoạn từ 1100 và 1800. Công trình khảo cứu lịch sử nổi tiếng của John Hobson [1]
về kinh tế thế giới trong giai đoạn này với sự phong phú của số liệu thực tế làm
rõ sự vượt trội của kinh tế và kỹ thuật của Trung quốc đối với nền văn minh
phương Tây trong suốt phần lớn thời gian của một thiên niên kỷ trước khi bị chinh
phục và suy yếu trong thế kỷ thứ 19 .
Sự nổi lên trở lại của Trung Quốc như một cường quốc kinh tế thế
giới đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng về những gì chúng ta có thể học được từ sự
thăng trầm của nước này và về những mối đe dọa từ bên ngoài và trong nội bộ mà
siêu cường kinh tế mới nổi này phải đương đầu trong tương lai gần.
Trước tiên chúng tôi sẽ phác thảo những nét chính của sự trỗi
dậy trong lịch sử của Trung Quốc với vai trò dẫn đầu kinh tế thế giới so với
các nước phương Tây trước thế kỷ 19, tuân theo lý luận John Hobson trong tác
phẩm Nguồn gốc phương Đông của Nền văn mình phương Tây (The Eastern Origins of
Western Civilization) . Vì phần lớn các sử gia kinh tế phương Tây ( tự do, bảo
thủ và chủ nghĩa Mác ) đã nói về Trung Quốc trong lịch sử là một xã hội lạc
hậu, trì trệ, thiển cận, một ” chế độ chuyên quyền phương Đông ” nên cần có sự
chỉnh sửa một số chi tiết cần thiết . Đặc biệt quan trọng là phải nhấn mạnh
bằng cách nào Trung Quốc với vai trò là cường quốc công nghệ của thế giới trong
giai đoạn 1100 đến 1800 đã giúp cho sự trỗi dậy của phương Tây. Chính phương
Tây, nhờ vay mượn và lĩnh hội các sáng tạo của Trung Quốc, đã có thể chuyển đổi
sang nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa đế quốc hiện đại .
Trong phần hai chúng tôi sẽ phân tích và bàn về các yếu tố và
hoàn cảnh dẫn đến sự sụp đổ của Trung Quốc trong thế kỷ 19 và sau đó là sự
thống trị, khai thác, bóc lột của các nước đế quốc phương Tây, đầu tiên Anh và
sau đó phần còn lại của châu Âu, Nhật Bản và Mỹ.
Trong phần ba chúng tôi sẽ phác thảo ngắn gọn các yếu tố dẫn đến
sự giải phóng của Trung Quốc khỏi ách thống trị thực dân và chủ nghĩa thực dân
và phân tích sự nổi lên gần đây của nước này để trở thành cường quốc kinh tế
lớn thứ hai toàn cầu.
Cuối cùng chúng ta sẽ xem xét các mối đe dọa trong quá khứ và
hiện tại đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc đê thành cường quốc kinh tế thế
giới, nêu bật sự tương đồng giữa chủ nghĩa thực dân Anh của 18 và 19 thế kỷ và
chiến lược của Mỹ hiện nay và tập trung vào những điểm yếu và điểm mạnh trong sự
đối phó của Trung quốc trước đây và hiện nay.
Trung Quốc: quá trình hình
thành và củng cố của cường quốc thế giới trong giai đoạn 1100 – 1800
Sử dụng phương pháp so sánh có hệ thống, John Hobson đưa ra rất
nhiều các chỉ số thực tế chứng minh tính ưu việt kinh tế toàn cầu của Trung
Quốc đối với phương Tây và đặc biệt là Anh. Sau đây là một số sự kiện nổi bật :
Ngay từ năm 1078 , Trung Quốc là nhà sản xuất thép lớn
trên thế giới (125.000 tấn); trong khi nước Anh vào năm 1788 chỉ sản xuất
được 76.000 tấn.
Trung Quốc đứng đầu thế giới về cải tiến kỹ thuật trong sản xuất
dệt may , bảy thế kỷ trước ” cuộc cách mạng dệt may ” trong thế kỷ 18 của Anh.
Trung Quốc là quốc gia thương mại hàng đầu , với con đường buôn
bán kéo dài đến hầu hết các nước Nam Á , Châu Phi , Trung Đông và châu Âu. ‘
Cuộc cách mạng nông nghiệp của Trung Quốc và năng suất cao hơn phương Tây đến
tận thế kỷ 18 .
Cải tiến trong sản xuất giấy, in ấn, vũ khí và các loại công cụ
dẫn đến một siêu cường về chế tạo với hàng hoá được vận chuyển trên toàn
thế giới nhờ hệ thống hàng hải tiên tiến nhất.
Trung Quốc sở hữu đội tàu thương mại lớn nhất thế giới . Năm
1588 các tàu Anh có tải trọng nước rẽ 400 tấn trong khi tàu Trung Quốc là 3.000
tấn . Thậm chí cuối cuối thế kỷ 18 các thương gia của Trung Quốc sử dụng
130.000 tàu vận tải tư nhân, gấp nhiều lần so với nước Anh. Trung Quốc vẫn giữ
vị trí ưu việt này trong nền kinh tế thế giới cho đến đầu thế kỷ 19 .
Các nhà sản xuất của Anh và châu Âu học theo Trung Quốc, lĩnh
hội và vay mượn công nghệ tiên tiến hơn của nó và sẵn sàng xâm nhập của thị
trường cao cấp và hấp dẫn của Trung Quốc .
Ngành ngân hàng, một nền kinh tế tiền tệ ổn định, công nghiệp
chế tạo và năng suất cao trong nông nghiệp dẫn đến thu nhập tính theo đầu người
của Trung Quốc ngang bằng với thu nhập bình quân đầu người của Vương quốc Anh
từ năm 1750.
Vị trí toàn cầu thống trị của Trung Quốc bị thách thức bởi sự
nổi lên của chủ nghĩa đế quốc Anh , nước đã sử dụng những sáng tạo về công nghệ
, hàng hải và thị trường tiên tiến của Trung Quốc và các nước châu Á khác để
vượt qua giai đoạn đầu trong việc trở thành một cường quốc thế giới [2] .
Chủ nghĩa đế quốc phương Tây và
sự suy yếu của Trung Quốc
Cuộc chinh phục phương Đông của đế quốc Anh và phương Tây dựa
trên cơ sở bản chất quân sự của nhà nước đế quốc, trong đó các mối quan hệ kinh
tế thương mại bất bình đẳng với nước ngoài và tư tưởng đế quốc phương Tây làm
động cơ và minh giải cho quá trình xâm lược ở nước ngoài.
Không giống như Trung Quốc, cuộc cách mạng công nghiệp của Anh
và sự mở rộng ra nước ngoài đã được thúc đẩy bởi một chính sách quân sự . Theo
Hobson , trong thời gian từ 1688-1815 Vương quốc Anh bỏ ra 52% thời gian để
tham gia vào các cuộc chiến tranh [3] . Trong khi Trung Quốc dựa trên thị
trường mở và năng suất sản xuất cao cùng kỹ năng thương mại và ngân hàng họ thì
người Anh dựa vào bảo hộ thuế quan , chinh phục quân sự , phá hủy hệ thống các
doanh nghiệp cạnh tranh ở nước ngoài cũng như sự chiếm hữu và cướp bóc tài
nguyên của địa phương. Trung Quốc chiếm ưu thế toàn cầu dựa trên ” lợi ích đối
ứng ” với các đối tác kinh doanh của mình , trong khi Anh dựa vào sự chiếm đóng
của quân đội lính đánh thuê, đàn áp dã man và áp dụng chính sách “chia để
trị ” để làm rối loạn các đối thủ cạnh tranh ở thuộc địa. Khi đối mặt với sự
phản kháng tự nhiên, người Anh (cũng như thế lực đế quốc phương Tây khác ) đã
không ngần ngại tiêu diệt toàn bộ các cộng đồng [4] .
Không thể giành thị trường Trung Quốc thông qua khả năng cạnh
tranh kinh tế cao hơn , Anh dựa vào sức mạnh quân sự. Nước này huy động, vũ
trang và chỉ huy lính đánh thuê được rút ra từ các thuộc địa của mình như Ấn Độ
và những nơi khác để ép buộc đưa hàng xuất khẩu vào Trung Quốc và áp đặt các
điều ước bất bình đẳng về cắt giảm thuế quan. Kết quả là Trung Quốc đã tràn
ngập á phiện Anh được sản xuất từ cây thuốc phiện trồng tại Ấn Độ – mặc dù luật
pháp Trung Quốc cấm hoặc quản lý việc nhập khẩu và bán các chất ma tuý . Các nhà
cai trị củaTrung Quốc vẫn quen với ưu thế hơn hẳn về thương mại và sản xuất ưu
việt của mình , đã không chuẩn bị cho những “quy tắc hoàng gia mới ‘ của cường
quốc thế giới. Sự sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự của phương Tây để giành thuộc
địa , cướp bóc tài nguyên và tuyển tuyển lính đánh thuê dưới quyền chỉ huy bởi
các sĩ quan châu Âu dẫn đến sự kết thúc vai trò cường quốc thế giới của cho
Trung Quốc .
Trung Quốc dựa trên ưu thế về kinh tế trên cơ sở ” không can
thiệp vào công việc nội bộ của các đối tác kinh doanh của mình . Ngược lại, đế
quốc Anh đã can thiệp thô bạo ở châu Á, tổ chức lại nền kinh tế địa phương cho
phù hợp với nhu cầu của đế chế ( loại bỏ đối thủ cạnh tranh kinh tế bao gồm các
nhà sản xuất bông hiệu quả hơn Ấn Độ ) và nắm quyền kiểm soát bộ máy chính trị
, kinh tế và hành chính địa phương để thành lập nhà nước thuộc địa.
Đế chế của Anh được xây dựng với nguồn tài nguyên lấy được từ
các thuộc địa và thông qua việc quân sự hóa mạnh mẽ nền kinh tế [5] . Vì thế nó
có thể đảm bảo ưu thế quân sự trên toàn Trung Quốc . Chính sách đối ngoại của
Trung Quốc bị cản trở bởi sự phụ thuộc quá mức vào quan hệ thương mại của tầng
lớp thống trị trong nước .Các quan chức Trung Quốc và giới tinh hoa thương mại
đã tìm cách xoa dịu người Anh và đã thuyết phục được hoàng đế của họ nhân
nhượng thêm lãnh thổ bị tàn phá để mở cửa thị trường, vừa gây thiệt hại cho các
nhà sản xuất Trung Quốc vừa từ bỏ chủ quyền địa phương. Như thường lệ, người
Anh dồn ép các đối thủ cạnh tranh và cuộc nổi dậy tiếp tục gây bất ổn cho nước
này.
Sự thâm nhập và thuộc địa hóa thị trường Trung Quốc của phương
Tây và Anh tạo ra một giai cấp hoàn toàn mới: những nhà tử bản mại bản
(compadore) giàu có người Trung Quốc nhập khẩu hàng hóa Anh và tạo điều kiện
cho Anh giành lấy thị trường và các nguồn lực địa phương. Nông dân và công nhân
Trung Quốc bị bóc lột nhiều hơn. Các nhà cai trị của Trung Quốc có nghĩa vụ trả
nợ chiến tranh và bù đắp tài chính cho thâm hụt thương mại áp đặt bởi các thế
lực đế quốc phương Tây bằng cách bóc lột nông dân nước mình . Điều này khiến
nông dân rơi vào cảnh nghèo đói và nổi loạn .
Đến đầu thế kỷ 20 ( gần một thế kỷ sau cuộc chiến tranh nha
phiến ) , Trung Quốc rơi từ vị trí một cường quốc kinh tế thế giới xuống thành
một nước nửa thuộc địa đổ vỡ với số dân nghèo rất lớn. Các hải cảng chính do
các quan chức phương Tây quản lý và các vùng nông thôn bị cai trị bởi những
lãnh chúa tham nhũng và tàn bạo. Thuốc phiện Anh bắt hàng triệu người làm nô
lệ.
Học thuật kiểu Anh: Các nhà
hùng biện cho sự xâm lược của đế quốc
Giới học thuật phương hoàn toàn phương Tây – chủ yếu là các nhà
sử học người Anh– giải thích sự thống trị của đế quốc Anh ở châu Á là do ‘ ưu
thế công nghệ “ của Anh còn sự đau khổ của Trung Quốc và tình trạng thuộc địa
của nước này là do ” sự lạc hậu của phương Đông ‘ trong khi đó bỏ
qua một thiên niên kỷ của sự tiến bộ thương mại và kỹ thuật và sự vượt trội của
Trung Quốc cho đến thời kỳ bước sang của thế kỷ 19. Đến cuối những năm 1920 ,
với cuộc xâm lược của đế quốc Nhật Bản , Trung Quốc không còn tồn tại như một
quốc gia thống nhất. Dưới sự thống trị của đế quốc, hàng trăm triệu người Trung
Quốc đã bỏ đói hoặc bị sa thải hoặc bị giết ,trong khi các nước phương
Tây và Nhật Bản thao túng nền kinh tế. Toàn bộ tầng lợp tư bản mạn bản ưu tú
của Trung Quốc đã mất uy tín trước nhân dân Trung Quốc .
Những gì đã còn lại trong ký ức tập thể của phần đông người
Trung Quốc – và những gì đã hoàn toàn không có mặt trong sự giải thích của các
học giả có uy tín của Anh và Mỹ – là cảm giác của Trung Quốc đã từng có một thời
là một cường quốc hàng đầu thế giới, giàu có và năng động . Các nhà bình luận
phương Tây đã bác bỏ ký ức chung về uy thế của Trung Quốc cho đó là sự giả tạo
ngu ngốc của tầng lớp lãnh chúa và hoàng tộc – một sự kiêu ngoại kiểu Hán xáo
rỗng.
Đứng lên từ tro tàn của sự cướp
bóp và sĩ nhục: Cuộc cách mạng cộng sản Trung Quốc
Sự nổi lên của Trung Quốc hiện đại để trở thành nền kinh tế lớn
thứ hai trên thế giới có thể được thực hiện chỉ thông qua sự thành công của
cuộc cách mạng cộng sản Trung Quốc vào giữa thế kỷ 20. Quân đội “ Đỏ”
Giải phóng Nhân dân đã đánh bại đội quân xâm lược đầu tiên quân đội hoàng gia
Nhật Bản và sau đó là quẩn đội Quốc dân đảng có sự hậu thuẫn của Mỹ. Điều này
cho phép thống nhất của Trung Quốc là một quốc gia có chủ quyền độc lập. Chính
quyền cộng sản đã bãi bỏ đặc quyền ngoài lãnh thổ của đế quốc phương Tây , chấm
dứt lãnh địa, lãnh hải của các lãnh chúa và bọn côn đồ khu vực và đuổi các ông
chủ triệu phú nhà thổ, những kẻ buôn phụ nữ và các loại thuốc phiện cũng như
các ”nhà cung cấp dịch vụ” khác sang đế chế Âu-Mỹ.
Về ý nghĩa, cuộc cách mạng cộng sản tạo ra nhà nước Trung Quốc
hiện đại. Các nhà lãnh đạo mới sau đó tiếp tục xây dựng lại một nền kinh tế bị
tàn phá bởi cuộc chiến tranh đế quốc và cướp bóc bởi tư bản phương Tây và Nhật
Bản. Sau hơn 150 năm bị sỉ nhục người dân Trung Quốc phục hồi niềm tự hào và
phẩm giá quốc gia của họ. Những yếu tố tâm lý xã hội – rất cần thiết trong việc
thúc đẩy Trung Quốc bảo vệ đất nước của khỏi các cuộc tấn công, phá hoại, tẩy
chay , và phong tỏa ngay của Mỹ sau khi giải phóng .
Trái với quan điểm các nhà kinh tế phương Tây và Trung Quốc tự
do mới, sự phát triển năng động của Trung Quốc đã không phải bắt đầu vào năm
1980 mà bắt đầu vào năm 1950, khi cải cách ruộng đất được cung cấp đất đai, cơ
sở hạ tầng , tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật cho hàng trăm triệu nông dân không có
đất và nghèo túng và những người lao động nông thôn không có đất đai. Thông qua
những gì hiện nay được gọi là ”vốn con người” và sự huy động xã hội khổng lồ,
những người Cộng sản xây dựng đường giao thông, sân bay, cầu, kênh mương và
đường sắt cũng như các ngành công nghiệp cơ bản, như than đá, sắt thép, để tạo
thành xương sống của nền kinh tế Trung Quốc hiện đại. Hệ thống giáo dục và y tế
miễn phí rộng lớn của nước Trung Quốc cộng sản đã tạo ra một lực lượng lao động
lớn, có học thức và động cơ. Quân đội chuyên nghiệp cao đã ngăn cản Mỹ mở rộng
đế chế quân sự của mình trên khắp bán đảo Triều Tiên đến biên giới lãnh thổ của
Trung Quốc. Cũng giống như các học giả và các nhà truyền truyền Tây trong quá
khứ đã vẽ ra lịch sử của một đế chế ”trì trệ và suy đồi” nhằm biện minh cho cuộc
chinh phục phá hoại của họ, các học giả hiện nay cũng đã viết lại ba mươi năm
đầu tiên của lịch sử của Trung Quốc cộng sản, phủ nhận vai trò của các cuộc
cách mạng trong việc phát triển tất cả các các yếu tố cần thiết cho một nền
kinh tế, nhà nước và xã hội hiện đại. Rõ ràng là tăng trưởng kinh tế nhanh
chóng của Trung Quốc dựa trên sự phát triển của thị trường trong nước, sự lớn
mạnh nhanh chóng của các nhà quản lý, nhà khoa học, kỹ thuật viên lành nghề và
người lao động cùng mạng lưới an sinh xã hội được bảo vệ và thúc đẩy sự huy
động giai cấp công nhân và nông dân là các sản phẩm của kế hoạch hóa và đầu tư
của chế độ cộng sản.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc thành cường quốc của thế giới bắt đầu
vào năm 1949 với việc loại bỏ toàn bộ các tầng lớp ăn bám về tài chính và đầu
cơ đóng vai trò trung gian cho châu Âu, Nhật Bản và đế quốc Mỹ bòn rút sự tài
nguyên của Trung Quốc.
Sự chuyển đổi của Trung Quốc sang chủ nghĩa tư bản
Bắt đầu từ năm 1980, chính phủ Trung Quốc bắt đầu có sự thay đổi
đáng kể trong chiến lược kinh tế: Trong ba thập kỷ tiếp theo , Trung quốc mở
cửa cho đầu tư nước ngoài trên quy mô lớn; tư nhân hóa hàng ngàn ngành công
nghiệp và khởi động một quá trình tập trung thu nhập dựa trên một chiến lược có
chủ ý tái tạo một tầng lớp kinh tế chi phối của các tỷ phú liên quan đến các
nhà tư bản nước ngoài. Tầng lớp cầm quyền chính trị của Trung Quốc nắm lấy ý
tưởng ”mượn” bí quyết kỹ thuật và tiếp cận thị trường nước ngoài của các công
ty nước ngoài để đổi lấy việc cung cấp lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ với
chi phí thấp nhất.
Nhà nước Trung Quốc tái định hướng các khoản trợ cấp công cộng
lớn để thúc đẩy tăng trưởng cao của tư bản bằng việc phá bỏ hệ thống quốc gia
về giáo dục và chăm sóc sức khỏe công cộng miễn phí . Nhà nước chấm dứt trợ cấp
nhà ở công cộng cho hàng trăm triệu nông dân và công nhân ở đô thị và cung cấp
kinh phí cho các nhà đầu cơ bất động sản để xây dựng căn hộ cao cấp, các tòa
nhà chọc trời và văn phòng của tư nhân. Chiến lược tư bản chủ nghĩa mới
của Trung Quốc cũng như tốc độ tăng trưởng hai con số của nó được dựa trên
những thay đổi cơ cấu triệt để và đầu tư công to lớn được thực hiện bởi chính
quyền cộng sản trước đây. Khu vực tư nhân của Trung Quốc “cất cánh” dựa trên
các khoản chi tiêu công khổng lồ thực hiện từ năm 1949.
Giai cấp tư bản mới thành công và các đối tác phương Tây giành
lấy tất cả thành tích của “phép lạ kinh tế” này khi Trung Quốc vươn lên trở
thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Tuy nhiên, tầng lớp ưu tú mới này của
Trung Quốc đã không muốn công bố đẳng cấp thế giới về sự bất bình đẳng giai cấp
kinh khủng ở Trung Quốc, vốn chỉ so sánh được ở Mỹ .
Trung Quốc: Từ phụ thuộc vào đế quốc trở thành đối thủ cạnh tranh
đẳng cấp thế giới
Tăng trưởng bền vững của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất của
nó là kết quả của các khoản đầu tư công tập trung cao, lợi nhuận cao, đổi mới
công nghệ và thị trường trong nước được bảo vệ. Trong khi vốn nước ngoài sinh
lợi thì vẫn luôn luôn ở trong khuôn khổ các ưu tiên và quy định của nhà nước
Trung Quốc. “Chiến lược xuất khẩu” năng động của chế độ dẫn đến thặng dư thương
mại khổng lồ, cuối cùng làm cho Trung Quốc một trong những chủ nợ lớn nhất thế
giới đặc biệt là khoản nợ của Mỹ. Để duy trì ngành công nghiệp năng động của
mình, Trung Quốc cần đầu vào lớn về nguyên liệu , dẫn đến các khoản đầu tư nước
ngoài quy mô lớn và các hiệp định thương mại với các nước xuất khẩu nông –
khoáng sản ở châu Phi và Mỹ Latinh. Đến năm 2010 Trung Quốc chiếm vị trí của Mỹ
và châu Âu trở thành đối tác thương mại chính của nhiều quốc gia ở châu Á ,
châu Phi và Mỹ Latinh.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc hiện đại thành cường quốc kinh tế thế
giới, giống thời kỳ giữa 1100-1800, là dựa trên năng lực sản xuất khổng lồ của
nó: Thương mại và đầu tư bị chi phối bởi một chính sách nghiêm ngặt về việc
không can thiệp vào các mối quan hệ nội bộ của đối tác thương mại .
Sự mất cân bằng có thể giữa sức mạnh kinh tế và quân sự của
Trung Quốc là hoàn toàn trái ngược với Mỹ, một đế chế quân sựký sinh, cồng
kềnh, đang tiếp tục xói mòn sự hiện diện kinh tế toàn cầu riêng của mình.
Chi tiêu quân sự của Mỹ cao gấp mười hai lần so với Trung Quốc.
Càng ngày quân đội Mỹ càng đóng vai trò định hình chính sách quan trọng tại
Washington khi nước này tìm cách kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc thành
cường quốc trên thế giới.
Sự trổi dậy của Trung Quốc trở
thành cường quốc trên thế giới: Lịch sử có lặp lại?
Trung Quốc có mức tăng trưởng khoảng 9 % mỗi năm, hàng hóa và
dịch vụ của nước này đang tăng lên nhanh chóng về chất lượng và giá trị. Ngược
lại, Mỹ và châu Âu chỉ tăng trưởng xung quanh mức 0 % trong giai
đoạn 2007-2012 . Các cơ quan khoa học kỹ thuật tiên tiến của Trung Quốc thường
lĩnh hội những phát minh mới nhất của phương Tây ( và Nhật Bản ) và cải tiến
chúng, qua đó làm giảm chi phí sản xuất . Trung Quốc đã thay thế các tổ chức
tài chính quốc tế do Mỹ và châu Âu kiểm soát ( IMF , Ngân hàng Thế giới , Ngân
hàng Phát triển Liên Mỹ ) để trở thành người cho vay chính ở Mỹ Latinh. Trung
Quốc tiếp tục dẫn đầu về đầu tư vào năng lượng và tài nguyên khoáng sản ở châu
Phi. Trung Quốc đã thay thế Mỹ trở thành thị trường chính cho dầu khí của Saudi
Arabian, Sudan và Iran và sẽ sớm thay thế Mỹ trở thành thị trường chính cho các
sản phẩm dầu mỏ Venezuela. Ngày nay Trung Quốc là nhà sản xuất và xuất khẩu lớn
nhất thế giới, thậm chí thống trị thị trường Mỹ, trong khi có vai trò trên thị
trường tài chính vì nước này giữ hơn 1,3 nghìn tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ .
Dưới áp lực ngày càng tăng của người lao động và nông dân, Trung
Quốc đã phát triển thị trường trong nước bằng cách tăng tiền lương và chi tiêu
xã hội để tái cân bằng nền kinh tế và tránh những bóng ma bất ổn xã hội . Ngược
lại, tiền lương ở Mỹ và các dịch vụ công quan trọng đã giảm mạnh tính theo giá
trị tuyệt đối và tương đối.
Với xu hướng lịch sử hiện tại rõ ràng là Trung Quốc sẽ thay thế
Mỹ trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới , trong thập kỷ tới , nếu Mỹ
không tấn công trở lại và nếu sự bất bình đẳng sâu sắc giữa các tầng lớp ở Trung
Quốc không dẫn đến một biến động xã hội lớn .
Sự trổi dậy của Trung Quốc hiện đại thành cường quốc trên thế
giới cũng gặp phải những thách thức nghiêm trọng. Trái ngược với lịch sử đi lên
của Trung Quốc trên sân khấu thế giới trước đây, cường quốc kinh tế toàn cầu
hiện đại Trung Quốc không kèm theo bất kỳ sự đảm bảo nào của các thế lực đế
quốc. Trung Quốc đã tụt lại rất nhiều sau Mỹ và châu Âu về năng khả năng phát
động chiến tranh xâm lược . Điều này có thể cho phép Trung Quốc giành các nguồn
lực công để tối đa hóa tăng trưởng kinh tế, nhưng lại làm Trung Quốc dễ bị tổn
thương trước ưu thế quân sự vượt trội của Mỹ với kho vũ khí khổng lồ cùng hệ
thống các căn cứ có vị trí địa lý - quân sự ngay ngoài khơi bờ biển Trung Quốc
và vùng lãnh thổ liền kề.
Trong thế kỷ XIX chủ nghĩa đế quốc Anh đập tan vị thế toàn cầu
của Trung Quốc nhờ ưu thế quân sự của mình, chiếm giữ các cảng vì Trung Quốc
phụ thuộc vào sự vượt trội về thương mại.
Chinh phục Ấn Độ, Miến Điện và nhất của châu Á cho phép Anh
thành lập các cơ sở thực dân và tuyển dụng quân đội đánh thuê địa phương. Anh
và quân đội đồng minh bao vây và cô lập Trung Quốc, làm gián đoạn hoạt động của
thị trường Trung Quốc và áp dụng các điều khoản thương mại hà khắc. Đế chế Anh
dưới sự bảo hộ của quân đội quyết định các loại hàng hóa Trung Quốc được nhập
khẩu (với thuốc phiện chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu của Anh vào những năm
1850 ) trong khi làm suy yếu lợi thế cạnh tranh của Trung Quốc thông qua các
chính sách thuế.
Ngày nay, Mỹ cũng đang theo đuổi chính sách tương tự như vậy:
hạm đội hải quân Mỹ tuần tra và kiểm soát các tuyến đường biển thương mại của
Trung Quốc và các nguồn tài nguyên dầu mỏ ngoài khơi thông qua các căn cứ ở
nước ngoài. Nhà Trắng đang trong quá trình phát triển các căn cứ quân sự phản ứng
nhanh ở Australia, Philippines và các nước khác ở châu Á. Mỹ đang tăng cường
các nỗ lực để làm suy yếu sự tiếp cận của Trung Quốc đến các nguồn tài nguyên
chiến lược ở nước ngoài đồng thời với việc ủng hộ các phần tử ly khai và nổi
dậy ở phí tây Trung Quốc, Tây Tạng , Sudan , Miến Điện , Iran, Libya, Syria và
những nơi khác. Các thỏa thuận quân sự của Mỹ với Ấn Độ và việc xây dựng
một chế độ thân Mỹ ở Pakistan đã tăng cường chiến lược cô lập Trung Quốc. Trong
khi đó Trung Quốc duy trì chính sách “phát triển hài hòa” và ”không can thiệp
vào công việc nội bộ của các nước khác” và đứng ngoài các cuộc tấn công của Mỹ
và châu Âu vào một số nước đối tác thương mại của Trung Quốc
Thiếu một chiến lược chính trị và tư tưởng có khả năng bảo vệ
lợi ích kinh tế ở nước ngoài của Trung Quốc đã để Mỹ và NATO để thiết lập lên
các chế độ thù địch với Trung Quốc. Chẳng hạn như ở Libya, nơi Mỹ và NATO đã
can thiệp để lật đổ của Tổng thống Gadhafi, người đã cùng Trung Quốc đã ký kết
nhiều hiệp định thương mại và đầu tư có trị giá nhiều tỷ USD. Khi đó, Trung
Quốc đã buộc phải rút lui 35.000 kỹ sư và công nhân xây dựng của Trung Quốc
trong một vài ngày. Điều tương tự cũng xảy ra ở Sudan, nơi Trung Quốc đã đầu tư
hàng tỷ USD để phát triển ngành công nghiệp dầu mỏ. Mỹ, Israel và châu Âu hỗ
trợ các phiến quân Nam Sudan Nam tấn công đường ống dẫn dầu và công nhân Trung
Quốc [6] . Trong cả hai trường hợp Trung Quốc đều rút lui thụ động để Mỹ châu
Âu tấn công các đối tác thương mại và làm suy yếu các khoản đầu tư của mình.
Dưới thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc đã có một chính sách tích
cực hỗ trợ phong trào cách mạng và các chính phủ thuộc Thế giới thứ ba. Tư bản
Trung Quốc ngày nay không có một chính sách tích cực để cho các chính phủ hay
các phong trào có khả năng bảo vệ các hiệp định thương mại và đầu tư song
phương của Trung Quốc. Trung Quốc không đủ khả năng để đối đầu với Mỹ để bảo vệ
lợi ích kinh tế của họ là do vấn đề thể chế. Chính sách đối ngoại của Trung
Quốc được định hình bởi lợi ích thương mại, tài chính và sản xuất dựa vào” lợi
thế cạnh tranh kinh tế “của họ để đạt được thị phần và không có sự hiểu biết về
những yếu tố nền tảng về quân sự và an ninh của cường quốc kinh tế thế giới.
Những người lãnh đạo chính trị của Trung Quốc đang ảnh hưởng sâu sắc bởi tầng
lớp các các tỷ phú mới có quan hệ mạnh mẽ với các quỹ trái phiếu phương Tây và
những người hấp thu một cách không phê phán các giá trị văn hóa phương Tây.
Điều này được chứng minh bởi sở thích của họ trong việc gửi con em của mình đến
các trường đại học ưu tú ở Mỹ và châu Âu. Họ tìm kiếm “sự thích nghi với phương
Tây” bằng bất cứ giá nào.
Sự thiếu hiểu biết chiến lược về việc xây dựng một thể chế dựa
trên quân đội làm cho Trung Quốc phản ứng không hiệu quả đối với sự ngăn cản
của phương Tây trong việc tiếp cận các nguồn tài nguyên và thị trường.
Quan điểm ”lấy kinh doanh làm đầu” của Trung có thể có tác dụng khi họ còn có
vai trò nhỏ trong nền kinh tế thế giới và Mỹ đã nhìn thấy ”mở cửa cho bản” như
một cơ hội để dễ dàng giành lấy các doanh nghiệp nhà nước của cũng như cả nền
kinh tế của Trung Quốc. Tuy nhiên, khi Trung Quốc (trái ngược với Liên Xô cũ)
quyết định giữ lại quyền kiểm soát vốn và phát triển chính sách công nghiệp do
nhà nước chỉ đạo và tính toán cẩn thận để hướng nguồn vốn và chuyển giao công
nghệ của phương Tây cho các công ty nhà nước và các công ty này đã thâm nhập
một cách hiệu quả vào các thị trường nội địa và ở nước ngoài của Mỹ khiến Mỹ
bắt đầu phàn nàn và có biện pháp trả đũa.
Trung Quốc có thặng dư thương mại khổng lồ với Mỹ làm nẩy sinh
phản ứng kép ở Washington: Mỹ đã bán được số lượng lớn trái phiếu kho bạc Mỹ cho
Trung Quốc và bắt đầu phát triển một chiến lược toàn cầu để ngăn chặn bước tiến
của Trung Quốc. Do thiếu đòn bẩy kinh tế để đảo ngược sự suy giảm của mình, nên
Mỹ dựa vào” lợi thế so sánh” duy nhất của nó – đó là ưu thế quân sự dựa trên hệ
thống toàn cầu của các căn cứ, mạng lưới các nước đồng minh, proxy quân sự,
NGOs, tầng lớp trí thức và lính đánh thuê vũ trang. Washington sử dụng bộ máy
an ninh công khai và bí mật rộng lớn của nó để làm suy yếu đối tác thương mại
của Trung Quốc. Washington phụ thuộc vào mối quan hệ lâu dài với nhà cầm quyền
tham nhũng, bất đồng chính kiến, nhà
báo và cơ quan truyền thông có thế lực để tuyên truyền trong khi đẩy mạnh cuộc
tiến cuộc tấn công quân sự chống lại lợi ích ở nước ngoài của Trung Quốc.
Trung Quốc không có gì có thể so sánh với các “bộ máy an ninh ở
nước ngoài của Mỹ ngoài thực hành chính sách ”không can thiệp”. Trước các cuộc
tấn công của phương Tây, Trung Quốc chỉ có thể có một vài sáng kiến ngoại giao, chẳng hạn như tài trợ phương tiện truyền thông bằng
tiếng Anh để trình bày quan điểm của mình, sử dụng quyền phủ quyết của mình tại
Hội đồng Bảo an LHQ để phản đối nỗ lực của Mỹ để lật đổ chế độ Assad ở Syria và
phản đối việc áp đặt biện pháp trừng phạt mạnh mẽ chống lại Iran, bác bỏ câu
hỏi của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton về tính “hợp pháp” của nhà nước
Trung Quốc khi bỏ phiếu chống lại nghị quyết của Liên Hợp Quốc và Mỹ chuẩn bị một
cuộc tấn công vào Syria [7].
Các chiến lược gia quân sự Trung Quốc cũng nhận thức rõ hơn các
mối đe dọa quân sự ngày càng tăng đối với Trung Quốc và đã thành công trong
việc đề nghị gia tăng chi phí quân sự lên 19% mỗi năm trong giai đoạn
2011-2015 [8]. Ngay cả với sự gia tăng này, chi phí quân sự của Trung Quốc cũng
thấp hơn 1/5 ngân sách quân sự của Mỹ. Ngoài ra, Trung Quốc không một căn
cứ quân sự nào ở nước ngoài so với con số 750 căn cứu quân sự của Mỹ. Hoạt động
tình báo ở nước ngoài của Trung Quốc chỉ ở mức tối thiểu và không hiệu quả. Các
đại sứ quán của Trung Quốc được điều hành chủ yếu vì lợi ích thương mại
hạn hẹp.
Có hai điểm yếu quan trọng khác cản trở sự trỗi dậy của Trung
Quốc thành một cường quốc thế giới. Thứ nhất là tầng lớp trí thức “Tây hóa”
cao, những người không phê phán học thuyết kinh tế của Mỹ về thị trường tự do
trong khi bỏ qua nền kinh tế dựa trên quân sự của nước này . Các trí thức Trung
Quốc nhắc lại sự tuyên truyền của Mỹ về ” giá trị dân chủ của các chiến dịch
của Tổng thống nhiều tỷ đô la, trong khi hỗ trợ việc bãi bỏ quy định quản lý
tài chính vốn có thể dẫn đến một sự tiếp quản của Wall Street đối các ngân hàng của
Trung Quốc. Nhiều chuyên gia tư vấn doanh nghiệp Trung Quốc và các học giả đã
được đào tạo tại Mỹ, họ chịu ảnh hưởng của các mối quan hệ với các học giả Mỹ
và các tổ chức tài chính quốc tế liên quan trực tiếp đến phố Wall và London .
Họ giàu có, trở thành các chuyên gia tư vấn được trả phí cao đồng thời nhận
được vị trí có uy tín trong các tổ chức của Trung Quốc. Họ xác định ”tự do hóa
thị trường tài chính” với ”các nền kinh tế tiên tiến” tạo khả năng khai thác
quan hệ với thị trường toàn cầu mà không cho điều đó là một trong những nguyên
nhân chính của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Những ”trí thức
phương Tây hóa” giống như các đối tác tư sản mại bản thế kỷ 19 ở Trung Quốc đã
đánh giá thấp và bác bỏ những hậu quả lâu dài của sự thâm nhập của phương Tây.
Họ không hiểu việc bãi bỏ quy định quản lý tài chính ở Mỹ gây ra cuộc khủng
hoảng hiện nay và bãi bỏ quy định sẽ dẫn đến một sự tiếp quản của phương Tây đối với hệ thống tài
chính của Trung Quốc – hậu quả dẫn đến sẽ là sự phân bổ lại nguồn tiết kiệm
quốc gia của Trung Quốc vào các hoạt động phi sản xuất ( đầu cơ bất động sản),
gây ra khủng hoảng tài chính và cuối cùng là làm suy yếu vị trí hàng đầu thế
giới của Trung Quốc.
Tầng lớp trẻ tuổi có học hành sống ở thành phố (yuppies) ở Trung
Quốc cố tình bắt chước và chạy theo phong cách tiêu dùng phương Tây, đồng thời
quan điểm chính trị của họ cũng bị cuốn theo phong cách này. Tính cách được
phương tây hóa cản trở ý nghĩa của tình đoàn kết với giai cấp
công nhân của mình.
Có cơ sở về kinh tế cho những tình cảm thân phương Tây của các
nhà tư bản mại bản mới ở Trung Quốc. Họ đã chuyển hàng tỷ đô la vào tài khoản
ngân hàng nước ngoài, mua nhà và mua căn hộ sang trọng tại London, Toronto, Los
Angeles, Manhattan, Paris, Hồng Kông và Singapore. Họ có một chân ở Trung Quốc
(nguồn gốc sự giàu có của họ) và một chân ở phương Tây (nơi tiêu thụ và cất
giấu tài sản của họ) .
Các nhà tư bản mại bản đã phương Tây hóa này đang ăn sâu trong
hệ thống kinh tế của Trung Quốc, có quan hệ gia đình với các lãnh đạo chính trị
trong bộ máy đảng và nhà nước. Liên kết của họ còn yếu trong quân đội và trong
các phong trào xã hội đang phát triển, mặc dù một số sinh viên và các nhà hoạt
động ”bất đồng chính kiến ” trong
”phong trào dân chủ” được hỗ trợ bởi các tổ chức NGOs phương Tây. Trong phạm vi
mà các mại bản gây ảnh hưởng, họ làm suy yếu các tổ chức kinh tế nhà nước, cơ
sở đưa Trung Quốc trở thành cường quốc thế giới, giống như trước đây đã làm
trong thế kỷ 19 bằng thông qua vai trò trung gian cho thực dân Anh. Tuyên bố về
“chủ nghĩa tự do” thuốc phiện Anh ở thế kỷ 19 đã đầu độc trên 50 triệu
người Trung Quốc trong vòng chưa đầy một thập kỷ. Ngày nay trong khi tuyên bố
về “dân chủ và nhân quyền”, tàu chiến Mỹ tuần tra ngoài khơi bờ biển của Trung
Quốc. Sự trổi dậy dưới sự lãnh đạo bởi tầng lớp tinh hoa của Trung Quốc để trở
thành cường quốc thế giới cũng đã tạo nên sự bất bình đẳng lớn lao giữa hàng
ngàn các tỷ phú mới và nhiều triệu phú ở tầng lớp trên và hàng trăm triệu người
lao động nghèo, nông dân và lao động nhập cư của tầng lớp dưới.
Tích lũy của cải và tư bản nhanh chóng ở Trung Quốc có thể được
thực hiện nhờ sự bóc lột nặng nề những người lao động, những người bị tước đoạt
mạng lưới an sinh xã hội trước đây của họ và những quy định về điều kiện làm
việc được đảm bảo dưới thời chủ nghĩa cộng sản. Hàng triệu hộ gia đình Trung
Quốc đang bị tước đoạt để giúp cho các nhà xây dựng và đầu cơ bất động sản xây
dựng văn phòng cao tầng và các căn hộ cao cấp cho tầng lớp thượng lưu trong và
ngoài nước. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản lên cao ở Trung Quốc đã tạo ra một
sự hợp nhất các cuộc đấu tranh ngày càng nhiều của quần chúng. Khẩu hiệu của
các nhà nhà đầu cơ ”làm giàu thật tuyệt vời” đã mất đi sức mạnh đánh lừa người
dân. Trong năm 2011, đã có hơn 200.000 vụ việc tại nhà máy ở các đô thị phổ
vùng duyên hải nông thôn. Bước tiếp theo, mà chắc chắn sẽ đến, sẽ có sự thống
nhất của những cuộc đấu tranh vào phong trào xã hội quốc gia mới với một chương
trình dựa trên lớp đòi hỏi khôi phục dịch vụ y tế và giáo dục đã được áp dụng
trước đây cũng như đòi hỏi phải có sự chia sẽ lớn hơn sự giàu có của Trung
Quốc. Yêu cầu hiện nay về tiền lương cao hơn có thể chuyển sang yêu cầu có sự
dân chủ hơ ở nơi làm việc. Để trả lời cho những yêu cầu phổ biến hiện nay,
những nhà tư bản mới thân phương Tây của Trung Quốc không thể hướng đến “mô
hình” Mỹ của họ, nơi công nhân Mỹ cũng đang trong quá trình bị tước đoạt những
lợi ích mà công nhân Trung Quốc đang vật lộn để lấy lại.
Một Trung Quốc, bị chia rẽ bởi xung đột chính trị và giai cấp,
không thể duy trì được động lực hướng tới vai trò lãnh đạo kinh tế toàn cầu
.Trung Quốc không thể đối đầu với những mối đe dọa quân sự đang ngày càng tăng
của Mỹ và các đồng minh ngay trong nội bộ khi cả nước là một xã hội chia rẽ sâu
sắc trong đó giai cấp công nhân ngày càng trở nên thù địch.Thời kỳ bóc lột vô
hạn đối với lao động của Trung Quốc phải kết thúc để đối mặt với sự bao vây Mỹ
của và sự suy giảm kinh tế ở các thị trường nước ngoài . Trung Quốc có nguồn
tài nguyên rất lớn. Với dự trữ 1,5 nghìn tỷ USD, Trung Quốc có thể tài trợ cho
một chương trình y tế và giáo dục quốc gia toàn diện trong cả nước.
Trung Quốc có thể đủ khả năng để theo đuổi một “chương trình nhà
ở công cộng ‘ dành cho 250 triệu lao động nhập cư đang sinh sống trong các khu
nghèo nàn ở đô thị. Trung Quốc có thể áp đặt một hệ thống thuế thu nhập lũy
tiến đối với các tỷ phú và triệu phú mới của mình và tài trợ các hộ gia đình
nông dân nhỏ, hợp tác xã và các ngành công nghiệp nông thôn để cân bằng lại nền
kinh tế. Các chương trình phát triển các nguồn năng lượng thay thế, chẳng hạn
như năng lượng mặt trời và năng lượng gió – là một khởi đầu đầy hứa hẹn để giải
quyết ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Sự xuống cấp của các vấn đề sức khỏe
liên quan đến môi trường đang là sự lo lắng của hàng chục triệu người. Trên tất
cả, sư bảo vệ tốt nhất đối với Trung Quốc chính là một chế độ ổn định dựa trên
công bằng xã hội cho hàng trăm triệu người và một chính sách đối ngoại của hỗ
trợ phong trào chống chủ nghĩa đế quốc ở và hỗ trợ bên ngoài, nơi Trung
Quốc có lợi ích sống còn. Điều cần thiết là một chính sách chủ động dựa
trên sự hợp tác cùng có lợi, bao gồm cả quân sự và ngoại giao. Ngoài ra, một
nhóm nhỏ các nhà trí thức có ảnh hưởng của Trung Quốc cũng đã nêu vấn đề về mối
đe dọa quân sự ngày càng tăng của Mỹ đồng thời ” nói không với chính sách ngoại
giao pháo hạm ” . [9]
Trung Quốc hiện đại có rất nhiều nguồn lực và cơ hội mà nước này
không có trong thế kỷ 19 khi bị chinh phục bởi đế quốc Anh . Nếu Mỹ tiếp tục
tích cực leo thang chính sách quân sự đối với Trung Quốc , Bắc Kinh có thể gây
ra một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng bằng cách bán phá giá một phần
trong số hàng trăm nghìn tỷ đô la trị giá trái phiếu chính phủ Mỹ . Trung Quốc
là một cường quốc hạt có thể chìa tay ra với
những người hàng xóm có hoàn cảnh tương tự, đó là Nga để đối đầu với Mỹ . Tổng
thống Nga Putin đã thề sẽ tăng chi tiêu quân sự từ 3% đến 6 % GDP trong thập kỷ
tới để chống lại các căn cứ tên lửa tấn công của Washington gần biên giới của
Nga và ngăn chặn chương trình’ thay đổi chế độ ” của Obama chống lại các đồng
minh của nước này, như Syria [ 10 ] .
Trung Quốc có mạng lưới đầu tư, tài chính và thương mại mạnh mẽ
trên thế giới và các nước bạn hàng lớn. Mối liên kết này đã trở thành cần thiết
cho sự phát triển tiếp tục của nhiều nước đang phát triển trên thế giới. Nhằm
vào Trung Quốc, Mỹ sẽ phải đối mặt với sự phản đối từ các thị trường mạnh lớn
trên toàn thế giới.
Nói cách khác, Trung Quốc hiện đại với tư cách là một cường quốc
thế giới, đã mạnh hơn so với năm đầu thế kỷ 18. Mỹ không có đòn bẩy về thuộc
địa như Anh từng có trong thời gian chuẩn bị cho Chiến tranh nha phiến. Hơn
nữa, nhiều trí thức Trung Quốc và phần lớn các công dân của mình không có ý
định để cho ” các nhà tư mại bản đã phương Tây hóa ” bán nước. Không gì thúc
đẩy sự phân cực chính trị trong xã hội Trung Quốc và đẩy nhanh quá trình đi đến
một cuộc cách mạng xã hội thứ hai ở Trung Quốc bằng giới lãnh đạo hèn nhát,
dâng hiến kỷ nguyên mới cho các nước phương Tây.
_______
Ghi
chú:
[1]
John Hobson, The Eastern Origins of Western Civilization (Cambridge UK:
Cambridge University Press 2004)
[2]
Như trên, Ch . 9 trang 190 -218
[3]
Như trên, Ch . 11 , trang 244-248
[4]
Richard Gott, Britain’s Empire: Resistance, Repression and Revolt (
London : Verso 2011) for a detailed historical chronicle of the savagery
accompanying Britain ’s colonial empire.
[5]
Hobson, trang 253-256.
[6]
Katrina Manson, “South Sudan puts Beijing ’s policies to the test”, Financial
Times, 2/21/12, p. 5.
[7]
Interview of Clinton NPR, 2/26/12.
[8]
La Jornada, 2/15/12 (Mexico City) .
[9]
China Daily (2012/02/20 )
[10]
Charles Clover, ‘‘Putin vows huge boost in defense spending’ , Financial Times,
2012/02/12
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét