Chấm dứt, các đồng chí!
|
Đoan Trang
Người
ta thường nói về “tham vọng bá quyền” của Trung Quốc như một lời cảnh báo đối
với thế giới, nhất là với các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Ít
người nói với chúng ta rằng tham vọng đó không phải là nguy cơ mà là một thực
tế; và ở vị trí nước láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam cần có sự chuẩn bị và
thái độ ứng xử thích hợp.
Sự "trỗi dậy hòa
bình" - hình thức bá quyền mới của Trung Quốc
* Việt
Nam - "nạn nhân" không tránh khỏi của bá quyền
Bá quyền, theo nghĩa chung, được định nghĩa
là quốc gia siêu cường duy nhất, mạnh tới mức chi phối tất cả các nước khác
trong hệ thống - khu vực nếu là bá quyền khu vực, và thế giới nếu là bá quyền
toàn cầu.
Từ trước đến nay, chưa một quốc gia nào trở
thành bá quyền toàn cầu. Theo học giả người Mỹ John Mearsheimer, trở ngại chính
là "khó khăn trong việc áp đặt quyền lực của mình lên một nước đối thủ nằm
ngoài khu vực của mình". Ví dụ, Mỹ tuy là nước mạnh nhưng không thể khống
chế châu Âu theo cách mà Mỹ áp dụng ở châu Mỹ.
Ngoài ra, nếu bị đại dương ngăn cách, các
nước thường không có khả năng tấn công chống lại nhau: "Biển rộng là trở ngại lớn, phát sinh
ra nhiều vấn đề triển khai lực lượng cho bên tấn công".
Mearheimer lấy Anh và Mỹ làm ví dụ. Hai nước
này chưa bao giờ bị một quốc gia lớn khác xâm lược. Cũng vì bị đại dương cản
bước, mà Mỹ chưa bao giờ xâm lược châu Âu và Đông Bắc Á, còn Anh không cố gắng
tấn công quân sự vào châu Âu lục địa.
Từ đây, Mearsheimer đưa ra một khẳng định:
Cách tốt nhất mà một nước lớn có thể trông đợi là trở thành bá quyền khu vực và
kiếm soát các quốc gia kề cận nó, có chung đường biên giới với nó, các quốc gia
mà nó có thể tiếp cận dễ dàng bằng đường bộ.
Địa vị của Trung Quốc hiện nay ở châu Á cho
thấy đất nước hơn một tỷ dân này đã và đang ở tâm thế trở thành bá quyền khu
vực, và sẽ là một thực tế dễ hiểu, dễ lý giải nếu họ muốn chi phối, kiểm soát
các quốc gia láng giềng, trong đó có Việt Nam.
Hơn thế nữa, với những đặc thù về địa chính
trị, địa kinh tế của mình, Việt Nam không tránh khỏi là đối tượng đặc biệt đáng
lưu ý trước mắt bá quyền khu vực.
* Trở thành bá quyền - ham muốn cố hữu và tất
yếu trong quan hệ quốc tế
Cần phải khẳng định ngay rằng, xu hướng trở
thành bá quyền không phải là tham vọng của riêng Trung Quốc. Nó là ham muốn của
bất kỳ một nước nào có vai trò nhất định khi tham gia vào quan hệ quốc tế (Nga,
Pháp, Đức, Italy, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v...)
Từ năm 1933, nhà nghiên cứu chính trị quốc tế
Frederick Schuman đã viết rằng, do không có một cơ quan quyền lực trung ương
đứng trên lập ra và thực thi các quy tắc ứng xử trên toàn cầu, nên mỗi quốc gia
đều đơn độc, dễ bị tổn thương và do đó buộc phải ích kỷ.
Nước nào cũng phải tự cứu lấy mình. Điều này
luôn đúng, cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn, bởi vì nếu một quốc gia bị thua thiệt
trước mắt thì rất có thể họ sẽ không tồn tại được lâu dài.
Thế giới đã có nhiều ví dụ về nỗ
lực trở thành bá quyền khu vực. Mỹ là bá quyền khu vực ở Tây bán cầu suốt hơn một
thế kỷ qua. Liên Xô chi phối các quốc gia Xô-viết cũ - và cả những nước thuộc
khối XHCN Đông Âu - mãi cho tới khi tan rã. Trước đó nữa là Nhật Bản trước Thế
chiến II, Đức dưới thời Quốc xã, Pháp dưới thời Napoleon…
Cách tốt nhất để tự cứu là phải trở nên hùng
mạnh hơn các nước khác trên nhiều phương diện, không chỉ là quân sự hay kinh
tế. Kịch bản lý tưởng là trở thành bá quyền trong hệ thống, nếu không đạt tới
phạm vi toàn cầu thì cũng phải là khu vực.
Thế nên, không có gì lạ nếu Trung Quốc muốn
thực hiện tham vọng bá quyền ở châu Á ngày nay.
Và, lợi ích của họ càng bành trướng, thì họ
càng có xu hướng vươn tới địa vị bá quyền hơn nữa, để bảo vệ bằng được lợi ích
đó. Không nên đặt câu hỏi tại sao Bắc Kinh luôn muốn mở rộng tầm ảnh hưởng kinh
tế - chính trị - quân sự tại khu vực châu Á Thái Bình Dương. Bởi vì dù có an
toàn đến đâu thì một nước lớn cũng không cảm thấy đủ về an ninh; và càng lớn
mạnh, họ càng cần tăng cường an ninh để duy trì địa vị của mình.
* Nước lớn kìm chân nhau, nước nhỏ tận dụng
Cùng với xu hướng khao khát trở thành bá
quyền, mỗi nước lớn đều có xu hướng ngăn cản nước lớn khác xâm nhập vào vùng
ảnh hưởng của mình. Ví dụ, Mỹ - bá quyền khu vực Tây bán cầu - tất yếu phải tìm
cách kiểm soát Trung Quốc - nước đang có tham vọng bá quyền ở châu Á - bởi sợ
Trung Quốc xâm phạm vào sân sau của Mỹ.
Hơn nữa, theo John Mearsheimer, "nếu một nước có khả năng làm bá quyền
xuất hiện, các nước lớn khác trong khu vực đó sẽ tìm cách kiềm chế".
Từ nhận định đó, ta có thể thấy rằng hai nước lớn khác ở Đông Á là Nhật Bản và
Hàn Quốc không dễ chấp nhận để Trung Quốc vươn lên địa vị bá quyền khu vực.
Áp dụng lý thuyết này, Việt Nam có thể tận
dụng quan hệ với các nước lớn trong khu vực (Nhật Bản, Hàn Quốc) và thế giới
(Mỹ, Anh, Pháp) để gây rào cản đối với Trung Quốc.
Tất nhiên, điểm cốt yếu là, để chống lại bá
quyền, các nước đối tượng của bá quyền không còn cách nào khác là phải liên tục
nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, thúc đẩy sự thịnh vượng về kinh
tế.
Một điều mà những quốc gia "nạn
nhân" cần đặc biệt lưu ý, là không có sự mặc cả giữa bá quyền và đối tượng
của bá quyền. Nói cách khác, tham vọng bá quyền của một nước lớn sẽ không bao
giờ dừng lại, chính bởi cái nguyên tắc "tự cứu" nói trên. Nước nhỏ
không thể thỏa thuận với nước lớn rằng sự bành trướng của nước lớn sẽ chỉ giới
hạn ở một mức độ nào đó để không ảnh hưởng tới nước nhỏ.
Bá quyền luôn không đơn thuần là sức mạnh bạo
lực, vì vậy, để có được bá quyền, không thể thiếu được cách cư xử mang tính
đồng thuận, chấp nhận và góp phần, một phần hoặc toàn thể, của những kẻ bị bá
quyền.
* Và cách ứng xử của Việt Nam
Frederick Schuman viết: Trong chính trị quốc
tế, Chúa chỉ cứu những ai biết cách tự cứu mình, và để tự cứu, không loại trừ
khả năng các nước lập liên minh với nhau.
Nước càng yếu thế về kinh tế - quân sự, thì
càng phải phát triển sức mạnh ngoại giao và sự liên kết với các nước khác. Điều
tối kỵ là một quốc gia vừa nhỏ yếu vừa bị cô lập trên thế giới.
Như TS quan hệ quốc tế Vũ Hồng Lâm nhận định,
nếu những sức ép mà Trung Quốc gây cho Việt Nam được dư luận quốc tế quan tâm
thì điều đó sẽ khiến Trung Quốc phải cân nhắc hơn trong quan hệ với Việt Nam,
nhất là khi Trung Quốc lại luôn muốn tự vẽ mình như một nước lớn thân thiện.
"Trỗi
dậy hòa bình", không gây hấn với các quốc gia khác, dồn mọi nỗ
lực vào tăng trưởng kinh tế - đó là hình ảnh mà Bắc Kinh ra sức tạo dựng trước
thế giới. Trong một bài diễn văn kéo dài hai tiếng rưỡi đồng hồ tại Đại hội
Đảng lần thứ 17, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào phát biểu chi tiết về các vấn
đề kinh tế, tài chính, công nghiệp, xã hội và môi trường, tuy nhiên hoàn toàn
bỏ qua lĩnh vực ngoại giao.
Nhưng trên thực tế, các chính sách kinh tế -
đầu tư - thương mại mà Bắc Kinh thi hành tại Đông Nam Á, những đòi hỏi vô lý về
chủ quyền ở Biển Đông, cùng những tranh cãi liên miên về đường biên giới với
Nga và Ấn Độ, đã khiến Trung Quốc mang hình ảnh của một láng giềng nước lớn,
bành trướng và khó chịu.
Việt Nam và các nước trong khu vực không thể
trông đợi Trung Quốc sẽ "trỗi dậy hòa bình" như chủ thuyết ngoại giao
(chưa bao giờ được công bố) của họ. Cũng vậy, Trung Quốc "khó lòng tơ tưởng đến việc họ có thể
lặng lẽ bước lên vũ đài thế giới mà không gây ra mảy may chú ý nào".
Đó là nhận định của Fareed Zakaria trong cuốn "The Post-American
World", có lẽ cũng là điểm mà Việt Nam - nước láng giềng liền kề biên giới
Trung Quốc - không nên bỏ qua.
Nguồn: Nhịp Cầu Thế Giới Online, 17.05.2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét