Aleksandr
Khramchikhin
Vấn
đề lớn nhất của nhân loại có lẽ là ở chỗ, nó không hiểu Trung Quốc hiện
nay là cái gì và Trung Quốc đang có những khuynh hướng phát triển như thế nào? Nhưng
mặt khác, có thể, nhân loại không hiểu được như thế lại hoá hay. Bởi
vì, hiểu ra điều đó là chuyện cực kì nặng nề, và cái chính là, dẫu có hiểu, nó
cũng đành bất lực, chẳng làm được trò gì.
Có thể đành phải chờ đợi và đoán xem, đất nước này dùng cách nào để đè bẹp
phần còn lại của thế giới. Kiểu tiếp cận Trung Quốc thông thường của phương Tây
hoàn toàn không phù hợp.`Một mặt, chủ nghĩa duy tâm ngớ ngẩn của những chú
panda huggers, hi vọng Trung Quốc sẽ hoà nhập vào hệ thống kinh tế và chính trị
hiện hành do phương Tây tạo ra một cách ôn hoà, hiền lành, ngoan ngoãn, tiếp tục
bì bạch chạy theo người tiêu dùng giày dép thể thao và laptop ở phương Tây để
nhận khoản tiền lương hậu hĩnh nhất là 100 đô la mỗi tháng.
Mặt khác, tầm nhìn cuồng tín, nông cạn về tư tưởng của China hawks, cho
rằng mọi vấn đề của Trung Quốc đều bắt nguồn từ việc nước này không có nền dân
chủ theo kiểu phương phương Tây. Trung Quốc sắp sụp đổ vì không có dân
chủ. Hoặc là Trung Quốc sẽ tấn công, chiếm lấy tất cả, vì nước này không có dân
chủ. Hoặc, lúc đầu nó tấn công, sau đó nó sụp đổ, vì nó không có dân chủ. Hoặc
lúc đầu nó sụp đổ, sau đó nó tấn công, bởi vì… Chao ôi, những kẻ đần độn thật
bất hạnh.
Tuy thế, Trung Quốc
cũng có nhiều người không đần độn. Ấy là những người hiểu rất rõ, rằng nếu đưa
dân chủ kiểu phương Tây vào Trung Quốc, thì nó sẽ sụp đổ ngay lập tức. Quan
điểm về Trung Quốc của Nga là hỗn hợp kì lạ giữa mối sợ hãi bản năng và niềm hi
vọng về một thứ bạn “cùng thuyền chiến lược” trên mặt trận chống Hung thần – Đế
quốc Mĩ. Quan niệm ấy không thể xem là hợp lí. Trung Quốc hiện nay có hàng loạt
đặc điểm nổi bật. Nói vắn tắt, nó là thế này:
1. Là sự kết hợp
giữa một bên là sự hiện diện của một trong những nền kinh tế lớn nhất
thế giới có nhịp độ phát triển nhanh và trình độ kĩ thuật cao, với một
bên là những vấn đề kinh tế – xã hội mang tính đặc thù của những nước
kém phát triển.
2. Dân số
khổng lồ, vượt quá khả năng đáp ứng của hoàn cảnh thiên nhiên. Dân số cho
phép tối đa ở Trung Quốc chỉ có thể là 700 đến 800 triệu người. Thế mà trong
thực tế, ai cũng biết, dân số nước này đã lên trên 1.3 tỉ, đã vậy, dù đã tìm đủ
mọi cách để hạn chế, nó vẫn đang tiếp tục tăng trưởng.
Thêm vào đó, 94% dân
cư Trung Quốc đang sinh sống trên 46% lãnh thổ.
3. Giữa thành phố và
nông thôn, giữa các vùng miền, có sự phân hoá cao nhất thế
giới. Giữa thành phố và nông thôn, sự khác biệt cao tới mức, các thống kê về
kinh tế – xã hội của nông thôn và thành phố phải lập riêng rẽ, y như là thống
kê ở những nước khác nhau. Sự chênh lệch giữa các vùng miền còn lớn hơn nữa.
Tổng thu nhập của các tỉnh duyên hải miền đông – nam Quảng Đông cao hơn 90 lần
so với tổng thu nhập của khu tự trị Tây Tạng phía tây – nam nước này.
Nếu xem các vùng
miền của Trung Quốc như những nước khác nhau, thì Quảng Đông về quy mô kinh tế
được xếp vào loại 30 nước hàng đầu, vượt cả những nước ví như Argentina. Trong
khi đó, Tây Tạng đứng vào hàng 130 – 140 thuộc nhóm Nigiêria, Malawi,
Tadjikistan. Gộp tất cả sự tương phản ấy lại với nhau, tức là đem so sánh mức
sống trung bình của các thị dân Bắc kinh, Thượng Hải, Thâm Quyến với mức sống
trung bình của người nông dân ở Quý Châu hay Tây Tạng, thì vấn đề không còn là
chuyện số lần hơn kém, mà là chuyện trật tự của các kích cỡ.
Sự thật là ở nước
này, có một số xã hội hoàn toàn khác nhau, từ xã hội nông nghiệp cổ truyền đến
xã hội hậu công nghiệp. Đó là những xã hội không chỉ hoàn toàn khác nhau về mức
sống, mà còn hoàn toàn khác nhau về tâm tính. Hơn nữa, sự chênh lệch có xu
hướng ngày càng gia tăng, chứ không giảm bớt.
4. Tốc độ
lão hoá của dân cư và sự chênh lệch về giới ở các nhóm thuộc tốp người
trẻ tuổi cao nhất thế giới. Dân số ở những tốp dân cư ở độ tuổi
trung niên tăng nhanh gấp đôi so với toàn bộ dân cư nói chung. Về cơ bản, đây
là điều đang lặp lại khuynh hướng mang tính đặc thù của các nước phương Tây,
nhưng ở phương Tây, quá trình lão hoá của dân cư chậm hơn rất nhiều và nó chỉ
bắt đầu khi tổng thu nhập tính theo đầu người đạt từ 5 đến 10 nghìn đô la (ở
Trung Quốc hiện nay vẫn còn dưới 2 nghìn đô la). Đồng thời, ở Trung Quốc, gia
đình chính thức phải gánh trách nhiệm chăm sóc, phụng dưỡng người già.
Chỉ có 1/6 người già
sống bằng nguồn lương hưu trí, người già ở nông thôn hoàn toàn không có trợ cấp
xã hội. Tức là người ta không trả lương hưu cho nông dân, mặc dù thu nhập của
họ thấp hơn nhiều lần so với thu nhập của thị dân. Theo truyền thống, cho đến
nay, việc phụng dưỡng cha mẹ vẫn là trách nhiệm của người con trai nối dõi tông
đường và được ăn thừa tự. Thế mà sinh đẻ lại bị hạn chế để giảm bớt gia tăng
dân số, nên mới nảy sinh sự chênh lệch về giới.
Tương quan
giữa trẻ trai và trẻ gái sơ sinh ở Trung Quốc đang cố giữ trong tỉ lệ
102-107:100, tối đa là 117:100, nhưng ở các tỉnh lẻ, tỉ lệ này là 130:100, còn
ở nông thôn, có nơi lên tới 150:100. Chỉ mấy năm nữa, thế hệ bước vào tuổi hôn
nhân sẽ có 20 triệu nam thanh niên bị “thiếu” cô dâu. Rõ ràng, đây là hiện
tượng chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại, bởi vậy, sẽ rất khó tiên
đoán hậu quả xã hội của nó và việc tìm ra con đường để giải quyết vấn đề
cũng sẽ hết sức phức tạp. Tiếp tục duy trì các xu hướng phát triển hiện nay
(thực ra, xu hướng phát triển này ngày càng trở nên trầm trọng, chứ không thể
duy trì), đến một lúc nào đó sẽ xuất hiện tình trạng: cô dâu trở thành hàng
hoá.
Nếu tính thêm những
thay đổi trong quan niệm của lớp nữ thị dân có giáo dục, xem lập nghiệp có ý
nghĩa quan trọng hơn hôn nhân, sẵn sàng gác việc lấy chồng tới giới hạn cuối
cùng có thể được, thì đàn ông thành phố sẽ muốn kết hôn với phụ nữ nông thôn,
còn đa số đàn ông nông thôn sẽ không có cơ may lấy được một người
vợ. Trong trường hợp này, xung đột giữa thành phố và nông thôn, giữa những
vùng phát triển và vùng lạc hậu sẽ trở thành mâu thuẫn mang tính đối kháng. Một
cuộc nội chiến giành giật cô dâu – “đó là thứ còn dữ dội hơn cả
“Faust” của Goethe”.
5. Sức ỳ hệ
thống rất cao, do tình trạng bảo thủ xã hội cực kì phức tạp, lại ở quy mô
rộng lớn và mức độ trầm trọng. Giới cầm quyền Trung Quốc từ lâu đã nhìn thấy và
hiểu ra, nó phải chấp nhận quan niệm lệch lạc “tăng trưởng tương đương với phát
triển”. Nó cũng có dự định sửa chữa hoàn cảnh, nhưng chẳng thu được kết quả nào
cả. Tăng trưởng kinh tế dựa trên mô hình sử dụng lao động quảng canhtiếp
tục phá mọi kỉ lục, hoàn thành vượt mức tất cả các kế hoạch sản xuất. Nhưng
đồng thời, “các kế hoạch” tiêu sài tài nguyên và phá huỷ môi trường cũng thi
nhau phá mọi kỉ lục. Thay vì hạn chế một cách có kế hoạch, khối lượng điện năng
được sử dụng vẫn không ngừng tăng lên. Khối lượng các loại phế thải độc hại vẫn
tăng, chứ không giảm. Mọi dự báo về mức độ sử dụng xăng dầu hàng năm của Trung Quốc
đều sụp đổ, thực tế hoá ra còn tồi tệ hơn các phương án dự báo về những khả
năng tồi tệ nhất.
6, Sự hiện
diện của những mâu thuấn phát triển không thể xoá bỏ trong khuôn khổ
của mô hình kinh tế đang vận hành ở Trung Quốc. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ nói
sau.
7. Thiếu một
mô hình lựa chọn phù hợp cho phép xoá bỏ các mâu thuấn và nền tảng
phương pháp luận tạo ra mô hình ấy. rõ ràng, hoàn toàn không có khả năng tạo ra
một mô hình lựa chọn như thế.
8. Quy mô của hệ
thống vấn đề nảy sinh từ phạm vi dân cư và kinh tế đã biến những vấn đề
của Trung Quốc thành những vấn đề của toàn bộ thế giới.
Vô khối những thứ
“cao nhất thế giới” kể ra ở trên mới chỉ là chuyện tỉ lệ phần trăm. Nhưng ở
đây, còn phải nhớ cả những đại lượng tuyệt đối. Đặc biệt là về con số 1,3 tỉ
dân, về hơn 200 triệu chủ thể chủ thể đang hoạt động kinh doanh. Từ những quy
mô này, sự chênh lệch trong tỉ lệ phần trăm rất dễ biến thành những con số
khổng lồ khi chuyển chúng sang các đại lượng tuyệt đối: 200-300 triệu thất
nghiệp, 150 di dân nội địa v.v…, và v.v…
Bây giờ xin nói về
những mâu thuẫn cơ bản.
Vì sao chuyện này
thường bị lờ đi? Quả tình, người ta đã viết rất nhiều về những mâu thuẫn
riêng lẻ, cục bộ, nhưng lại không xem xét các mâu thuẫn ấy trong tổng thể của
chúng.
1. Mâu thuẫn giữa
nhu cầu duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao dựa vào các khu vực thuê mướn
lao động nhằm mục đích đảm bảo việc làm cho dân cư ngày càng phát triển và nhu
cầu giảm bớt nhịp độ tăng trưởng, chuyển từ nền sản xuất chú trọng số lượng
sang nền sản xuất chú trọng chất lượng, có cân nhắc tới đặc điểm tài nguyên –
sinh thái.
2. Mâu thuấn giữa
đòi hỏi và nhu cầu ngày càng cao của dân cư với nguồn tài nguyên, chẳng riêng
gì của Trung Quốc, mà ngay của cả hành tinh cũng không đủ khả năng đáp ứng các
đòi hỏi và nhu cầu ấy.
3. Mâu thuấn giữa
nhu cầu tiếp tục thực hiện chính sách “Mỗi gia đình – một con” với nhu cầu giảm
bớt các hạn chế nhân khẩu theo những cân nhắc về đặc điểm xã hội.
4. Mâu thuẫn giữa
chính sách dựa vào dân số như một nguồn tài nguyên kinh tế và năng lực cạnh
tranh cơ bản với tình trạng dân số quá đông như một vấn đề nghiêm trọng của đất
nước.
Trong quá trình cải
cách mở cửa, Trung Quốc đã sử dụng khối dân cư khổng lồ, vừa cần cù, lại
vừa dễ tính, chẳng quen đòi hỏi gì, như một thứ tài nguyên cơ bản. Nhân loại
cũng hả hê đồng tình với điều đó để biến Trung Quốc thành một “xưởng lắp ráp
toàn thế giới”. Sự dồi dào của nguồn nhân công vô tận và, ứng với điều đó, tình
trạng cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động đã cho phép duy trì mức chi
phí thấp, nhờ thế, sản phẩm của Trung Quốc có giá cả rất rẻ. Tuy nhiên, tình
trạng thất nghiệp chỉ có lợi khi dừng lại ở một giới hạn nào đó, vượt quá giới
hạn ấy, nó sẽ trở thành mối đe doạ thực tế với sự ổn định xã hội. Vậy mà quân
số lao động vẫn không ngừng tăng lên, đòi hỏi phải được “sử dụng”.
Cách tốt nhất để sử
dụng nguồn lao động này là tiếp tục tăng cường sản xuất hàng hoá thông dụng,
huống chi chính khu vực sản xuất này đã thu về cho đất nước một nguồn ngoại tệ
khổng lồ. Nhưng, dĩ nhiên, nó cũng đòi hỏi phải có một số lượng nhiên liệu
khổng lồ mà bản thân Trung Quốc không thể có đủ, dẫn tới việc huỷ hoại ngày
càng dữ dội môi trường thiên nhiên mà chắc chắn sẽ tạo ra một thảm hoạ sinh
thái vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại. Những nhân tố này đã bắt đầu
“ngốn” vào chính sự tăng trưởng kinh tế như là hậu quả của nó.
Việc cải biến một
nền sản xuất thiên về số lượng, dựa vào lao động phổ thông thành một nền sản
xuất chú trọng tới chất lượng, dựa vào lao động khoa học, trước hết, đòi hỏi
phải đầu tư một nguồn kinh phí khổng lồ (nhất là để nâng cao trình độ giáo dục
còn rất thấp của dân cư), sau nữa, sẽ dẫn tới nạn thất nghiệp tăng lên một cách
gay gắt và điều này chắn chắn sẽ tạo ra nguy cơ nghiêm trọng thực sự đe doạ sự
ổn định xã hội.
Đúng là cả xã hội
Trung Quốc nói chung đang thực sự quan tâm tới việc tìm kiếm một lối thoát ra
khỏi tình huống được hình thành ở nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa hiện nay.
Nhưng, đồng thời, đại diện của tuyệt đại đa số các nhóm xã hội đều muốn
duy trì mô hình cải cách hiện nay. Dĩ nhiên, điều này liên quan trực tiếp
tới các nhóm xã hội được hưởng lợi từ những cuộc cải cách (tầng lớp quan liêu,
các nhà kinh doanh, công nhân có tay nghề cao, các nhà môi giới v.v…).
Nhưng các nhóm xã
hội còn lại, tức là những nhóm không được hưởng lợi từ cải cách, thì không hề
quan tâm tới sự thay đổi mô hình, bởi vì nó chỉ làm tăng thêm số lượng những
người nông dân mất ruộng đất và đội quan thất nghiệp khiến cho địa vị của họ
trở nên tồi tệ hơn.
Cho nên, xung đột
giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài có ý nghĩa quan trọng với tuyệt đại bộ
phận các thành viên của xã hội Trung Quốc. Thực tế, con người bao giờ
cũng giải quyết xung đột ấy vì lợi ích trước mắt. Tức là xuất phát từ việc
duy trì mô hình phát triển hiện nay.
Mà chính phương Tây
cũng muốn duy trì mô hình ấy. Phương Tây sẽ còn tụng niệm rất nhiều, rất hay
cho chính bản thân mình về sự tuyệt diệu của xã hội thông tin hậu công nghiệp.
Đồng thời, không hiểu vì sao, có một sự thật bị xem nhẹ, ấy là cư dân của thiên
đường mặt đất này cũng phải ăn, mà phải ăn nhiều,ằn ngon; phải xỏ giày dép, mặc
quần áo, áo quần giày dép phải đẹp, phải rẻ, phải đi trên những chiếc xe hơi
tuyệt hảo và phải dùng những chiếc máy tính thật tinh xảo để làm việc (nếu
klhông thế, sao gọi là xã hội thông tin?). Có điều, tất cả những thứ này vẫn
cần phải cso một ai đó làm bằng tay, mà lại muốn sao cho thật rẻ.
Đây rồi, chính người
Trung Quốc đang làm. Họ làm bằng tay, rất nhiều và rất rẻ.
Chẳng ai muốn động
óc suy nghĩ về hậu quả của sự mầu nhiệm ấy.
Nhân loại cố tình
nhắm mắt, không muốn nhìn xem sự tăng trưởng tiếp theo của trung Quốc sẽ đẫn
tới đâu – ngay cả khi quan điểm “tăng cường bình ổn” đang được giới giới cầm
quyền Trung Quốc tuyên truyền hiện nay là sự thật, chứ không phải tuyên truyền.
Phương Tây sẽ còn
sụt sùi rất lâu về việc “phát triển bên vững” và xoá bỏ bất bình đẳng trong mức
sống giữa các quốc gia phát triển và các nước đang phát triển. Nhưng tất cả đều
hiểu rất rõ, rằng đại đa số các nước đang phát triển sẽ không bao giờ đuổi kịp
trình độ của các quốc gia phát triển. Bởi vì, nếu đưa “cá” cho các nước ấy,
tầng lớp tham nhũng “ưu tú” ngày càng phình to sẽ chén sạch, rồi sau đó lại xin
thêm “cá”. Nhưng nếu đưa “cần câu” cho các nước đang phát triển, họ dễ dàng bẻ
ngay cái “cần câu” ấy.
Trung Quốc thuộc về
số ngoại lệ rất ít ỏi. “Cá” nó không cự tuyệt, mà “cần câu” nó sử dụng cũng rất
tài, nếu có ý đồ tước đoạt “cá” và “cần câu” (hoặc có ý không đưa), nó sẽ dùng
sức mạnh để cướp giật cho mình.
Cư dân Nigeria dù
trong bất kì hoàn cảnh nào cũng sẽ không sống như cư dân Thuỵ Điển. Trên
lí thuyết, cư dân trung Quốc có thể có tham vọng vượt lên cao hơn mức sống ấy.
Không ai có khả năng và có quyền cấm họ làm như thế.
Chỉ có điều phải
nhớ, tài nguyên của cả hành tinh không đủ để đảm bảo cho mỗi người dân Trung
Quốc có mức sống như vậy. Họ không đủ ăn, không đủ xăng dầu và bao nhiêu thứ
vật dụng không kém cần thiết khác. Thế thì sẽ chẳng còn gì để dành phần cho
người khác. Tức là chúng ta chỉ còn mỗi việc là phải tin, rằng Trung Quốc (đất
nước có dân cư đông nhất thế giới, có quân đội hùng mạnh và sự ngạo mạn ngút
trời) sẽ mãi mãi kiên trì gia công hàng hoá thông dụng cho những người ngoại
quốc giàu có bằng cái giá của sự nghèo túng của riêng mình.
Có lẽ, phải gọi niềm
tin ấy là chủ nghĩa phê phán thì chính xác hơn.
Với những gì đã
trình ở trên, chúng ta hoàn toàn không thể hiểu, Trung Quốc sẽ làm thế nào để
tránh, không bành trướng ra bên ngoài bằng tất cả các hình thức của nó (kinh
tế, chính trị, nhân khẩu, quân sự). Nó hoàn toàn không có sức sống trong các
ranh giới hiện nay của mình. Hoặc là nó phải lớn lên gấp bội, hoặc là nó buộc
phải nhỏ hơn rất nhiều. Bởi thế, vấn đề không phải là sự xâm lược của Trung
Quốc, mà là với nó, bành trướng là kế sách duy nhất để sống sót.
Đó không phải là con
ngoáo ộp, mà là hiện thực khách quan đang cắt cứa vào giác quan của ta.
Quả thật, vẫn còn ít
người cảm nhận được hiện thực ấy. Nhưng chẳng bao lâu nữa, nó sẽ tới.
Lã
Nguyên dịch, Nguồn: Báo “АПН”
(Агенство политических новостей) ra ngày thứ Tư, 15.4.2010
Aleksandr
Anatolievich Khramchikhin (sinh: 1967): Phó Giám đốc Viện Phân tích Chính trị
và Quân sự, Liên Bang Nga.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét