Nguyễn Trần Bạt
1. Tri thức – Tư tưởng
Tri thức, có thể nói, là bộ
phận quan trọng nhất của văn hoá. Tri thức bao trùm nhiều lĩnh vực: lao động
sản xuất (công, nông nghiệp), chính trị, giáo dục, văn học, nghệ thuật, y tế,
xây dựng, luật pháp, giao thông, giao tiếp, chinh phục thiên nhiên, chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc... Đó là những hiểu biết khoa học, những kinh nghiệm và sự khôn
ngoan mà con người tích luỹ được trong quá trình lao động sản xuất, đấu tranh
và thích ứng với thiên nhiên cũng như với xã hội nhằm duy trì và phát triển
cuộc sống của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng người trong quá trình lịch sử
lâu.
Trong
thời đại ngày nay, tri thức còn quan trọng hơn bao giờ hết. Nó đang dần dần trở
thành lực lượng lao động trực tiếp quan trọng nhất. Điều đó dẫn đến những thay
đổi lớn lao không chỉ trong quản lý và sản xuất kinh doanh, mà còn làm đảo lộn
cuộc sống con người, thay đổi các quan niệm, các thói quen, các thước đo giá
trị. Báo chí đang nói rất nhiều về một nền kinh tế tri thức, nhưng theo chúng
tôi, như.vậy chưa đủ. Ngày nay, đã đến lúc phải nói đến một xã hội tri thức,
trong đó tri thức sẽ quyết định các thước đo giá trị không chỉ của mỗi cá nhân
mà còn của cả một dân tộc.
Tất
nhiên, tri thức chỉ có thể trở thành một bộ phận của văn hoá nếu như nó định
hướng và được định hướng cho các ứng xử của con người và cộng đồng người. Vai
trò định hướng ấy thuộc về đạo đức, mà gốc rễ là cái thiện, một trong ba giá
trị phổ quát nhất trong đời sống tinh thần của nhân loại (chân, thiện, mỹ).
Marx đã
có một định nghĩa rất hay, rằng con người là tổng hoà của các quan hệ xã hội.
Con người chỉ có thể là con người xã hội, trong đó các cá nhân, ở những mức độ
khác nhau, đều được xã hội hoá. Họ sống, làm việc, hành động theo những qui tắc
ứng xử đã hình thành trong xã hội. Như thế, chúng ta có thể nói rằng, mỗi cá
nhân đã tiếp nhận một hệ thống các qui luật và các thước đo văn hoá và thể hiện
chúng trong những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Những thước
đo này về bản chất là những tiêu chuẩn lý tưởng mang tính chất qui ước mà mỗi
cá nhân cần phải tuân theo, nhưng thực tế chỉ có thể được tiệm cận đến mà thôi.
Một
lĩnh vực vô cùng quan trọng của tri thức là khoa học, kỹ thuật. Tuy nhiên, có
lẽ quyết định nhất lại là tư tưởng. Hệ thống tư tưởng là sản phẩm mà con người
có quyền tự hào trước hết. Tất cả mọi sự sáng tạo về khoa học và công nghệ là
hệ quả của tư tưởng. Có một thời chúng ta đã đồng nhất giữa những nhà nghiên
cứu khoa học tự nhiên với các nhà triết học, gọi là triết học tự nhiên. Newton
có thể được xem là một nhà triết học. Einstein cũng có thể được xem như một nhà
triết học. Lev Tolstoy cũng vậy Triết học là khoa học để tạo ra cho con người
những công cụ nhận thức thế giới, nhận thức chính bản thân con người. Tư tưởng
là một sản phẩm vô hình, là sản phẩm tinh thần. Vì thế, nếu con người đối lập
mình với người khác, và không phải đối lập bằng tư tưởng mà lại bằng những công
cụ vật chất, chẳng hạn để tổ chức các cuộc xung đột, thì đấy là một sai lầm to
lớn. Cái đầu tiên mà con người cần phải khắc phục để làm chủ được mình là sự
đối lập về tư tưởng. Nhiều cuộc chiến tranh đã không thể tránh khỏi do sự xúi
giục của những khác biệt về nhận thức hay khác biệt về hệ tư tưởng. Chính nhân
danh sự đối lập về tư tưởng mà người ta tổ chức những sự đối lập khác, về kinh
tế chẳng hạn. Tôi cho rằng con người đã vô tình làm mất danh dự của các sản
phẩm tư tưởng. Các sản phẩm tư tưởng, cũng như các nhà tư tưởng, vô tư hơn,
trong sáng hơn, và có lẽ cũng trong sạch hơn. Họ đóng góp cho nhân loại công cụ
để nhận thức để rồi nhân loại sử dụng nó để xung đột. Tôi không tin các nhà tư
tưởng xung đột với nhau. Họ chỉ cãi nhau mà thôi. Chỉ có việc sử dụng tư tưởng
với những động cơ không trong sạch mới tạo ra sự xung đột. Cho nên sự xung đột
về tư tưởng là kết quả của sự vận dụng sai trái tư tưởng chứ không phải là kết
quả trực tiếp của các nhà tư tưởng.
Sự nâng
cao dân trí, sự tiến bộ của nhân dân là thước đo trình độ phát triển của các
quốc gia, đồng thời cũng là nguồn gốc của những đòi hỏi ngày càng cao, ngày
càng khắt khe hơn đối với những nhà chính trị. Họ buộc phải có những phẩm chất
cao hơn, đặc biệt là phải có trí tuệ cao hơn. Thời đại của những phương pháp
cai trị ngu dân đã qua. Ngày nay, họ không còn cơ hội, cũng không thể kìm hãm
dân trí để có thể cai trị một cách dễ dãi. Các nhà lãnh đạo, hơn bao giờ hết,
phải thực sự là đội ngũ tiên phong, phải xứng đáng là người đại diện cho nhân
dân cả về trí tuệ lẫn quyền lợi. Nói cách khác, họ phải phản ánh nguyện vọng và
ý chí của nhân dân. Theo chúng tôi, dân trí là một khái niệm triết học và chính
trị học cực kỳ quan trọng, là một trong những dấu hiệu quan trọng nhất để xác
định một xã hội phát triển.
Dân trí
bao gồm rất nhiều thứ: tư tưởng, khoa học kỹ thuật, luật pháp, nghệ thuật...
Nhưng quan trọng nhất và bao trùm lên tất cả là ý thức của người dân về thân
phận của mình. Khi người dân chưa ý thức được về thân phận và vai trò của mình
trong xã hội thì không thể nói đến một xã hội phát triển cao.
Vì thế,
dân trí gắn liền với dân chủ. Trong tất cả những mặt khác nhau của khái niệm
dân trí, mặt quyết định là giác ngộ chính trị.
Dân chủ
là mức cao nhất của sự giác ngộ chính trị. Chế độ dân chủ làm tăng cường dân
trí, có nghĩa là tăng cường số lượng các nhà tư tưởng. Cuộc sống dù ở mức thấp
hay mức cao đều là sự chung sống giữa các luồng tư tưởng hay, các nhà tư tưởng.
Các nhà tư tưởng ấy ít nhất cũng lý giải bản thân và lý giải cuộc sống. Một
người nhận thức có hệ thống thì trở thành nhà tư tưởng, ít nhất cũng là một nhà
tư tưởng đối với những vấn đề của chính bản thân mình. Một xã hội trong đó mọi
người đều thông thái, đều có khả năng lý giải các vấn đề của mình để tồn tại và
phát triển, chắc chắn sẽ phát triển với tốc độ lớn hơn. Chính vì lý do đó dân
chủ sẽ thắng thế. Vì vậy một chế độ chính trị buộc người ta tôn thờ một loại tư
tưởng và hạn chế tính đa dạng tư tưởng trong phạm vi quốc gia là chế độ phản động
về mặt văn hoá, bởi vì nó hạn chế chính năng lực cạnh tranh của cả dân tộc.
2. Tư tưởng, Hệ tư tưởng và Sự
lạc hậu của các hệ tư tưởng
Trước
hết cần phải khẳng định rằng tư tưởng, với tư cách là sản phẩm tinh thần của
con người, luôn tồn tại. Nó xuất hiện một cách tự nhiên do nhu cầu nhận thức
của con người, phục vụ cho sự phát triển. Có thể nói, tư tưởng là một trong
những sản phẩm quan trọng nhất của đời sống mà con người hoàn toàn có quyền tự
hào, thứ sản phẩm còn cao hơn và tinh xảo hơn mọi thứ sản phẩm công nghiệp hay
công nghệ tinh xảo nhất.
Trong
cuộc sống có nhiều tư tưởng khác nhau. Các tư tưởng tương tác với nhau, tập hợp
lại với nhau một cách tự nhiên thành một chuỗi các nhận thức, được thừa nhận và
bị loại bỏ cũng theo quy luật tự nhiên. Là công cụ của nhận thức, tư tưởng thể
hiện thông qua các hành vi, cả những hành vi của tư duy lẫn những hành vi bản
năng. Tư tưởng được liên tục lựa chọn bởi các cá nhân cụ thể và có vai trò định
hướng hành động. Do đó, nhận thức về tư tưởng phải linh hoạt chứ không thể coi
nó là những giá trị bất biến.
Nếu tư
tưởng là công cụ của nhận thức thì hệ tư tưởng là hệ thống các công cụ ấy. Hệ
tư tưởng không phải là sản phẩm riêng của cộng đồng, thậm chí nó cũng không
phải là sản phẩm riêng của thời đại, nó là sự tổng hòa những kinh nghiệm sống
của nhiều cộng đồng người và của nhiều thời đại.
Việc
phổ biến rộng rãi một hệ tư tưởng nào đó bao giờ cũng nhằm hướng dẫn hành vi
của cả cộng đồng, góp phần tập trung một cách cao độ và nhất thời các nguồn lực
của cộng đồng ấy vì những mục tiêu nhất định, lại những thời điểm nhất định.
Tuy nhiên, sử dụng hệ tư tưởng như một công cụ nhận thức toàn dân là một nhiệm
vụ quan trọng nhưng cũng hết sức nguy hiểm, nhất là khi việc sử dụng như vậy
xảy ra trong thời gian dài. Bởi lẽ, nó có thể đẩy cộng đồng ấy rơi vào tình
trạng thụ động, thậm chí là phản động.
Thực tế
cho ta thấy chính sự áp đặt và định hướng hành vi theo cách đó đã hạn chế năng
lực sáng tạo của con người. Thậm chí, đã đến lúc cần phải lên án tính lỗi thời
của hệ tư tưởng như là kết quả của sự bảo thủ hay là tính lười biếng. Việc con
người không dám nhận thức chủ động mà vẫn bám giữ các hệ giá trị cũ được xây
dựng bởi hệ tư tưởng cũ sẽ tạo ra tính lạc hậu tương đối của hệ tư tưởng đối
với sự phát triển của đời sống. Chính hệ tư tưởng, với những yếu tố thuộc về
bản chất, đã hạn chế năng lực sáng tạo của con người và do đó, làm mất đi tính
đa dạng sinh học của nhận thức.
Trong
thế kỷ XX chúng ta đã mắc phải hai sai lầm nghiêm trọng. Sai lầm thứ nhất là
tách hệ tư tưởng ra khỏi cuộc sống và biến nó thành một thứ để tôn thờ. Tôn thờ
những giá trị tinh thần thì đúng, nhưng tôn thờ những giá trị cụ thể của tinh
thần thì lại hoàn toàn sai. Tư tưởng không phải là thứ để tôn thờ mà nó được
sinh ra nhằm phục vụ sự phát triển. Do đó, khi tư tưởng không còn thích hợp hay
đã trở nên lạc hậu thì chúng ta chỉ nên nhìn nhận nó như một giá trị lịch sử
với những công lao thuộc về thời quá khứ mà thôi. Sai lầm thứ hai là tách các
giá trị biểu kiến của sự vật ra khỏi giá trị vật lý của nó. Thị trường chứng
khoán là một ví dụ điển hình. Thị trường chứng khoán tạo ra một hệ thống các
giá trị ảo bên ngoài năng lực thật của nó. Trong lĩnh vực tư tưởng cũng vậy.
Những thế lực ở thượng tầng kiến trúc đang tôn thờ một giá trị, trong khi cuộc
sống đã và đang đòi hỏi con người phải tìm kiếm những giá trị khác.
Quan
điểm của chúng tôi hết sức rõ ràng: hiện nay, hệ tư tưởng không còn tương thích
với sự phát triển của thế giới hiện đại nữa, nó chỉ còn là những giá trị lịch
sử. Đó là một sự thật, không chỉ ở những quốc gia nghèo đói, mà ở trên phạm vi
toàn thế giới, có lẽ chỉ trừ ở chỗ nào mà con người vẫn muốn tiếp tục nô dịch
con người. Thế giới đang thay đổi hàng ngày và nó đòi hỏi mỗi người phải có
năng lực tư duy độc lập. Không thể chống lại trào lưu tự nhiên ấy và chúng tôi
tin rằng một thảm họa sẽ xảy ra nếu chúng ta gắng sức duy trì sự thống trị của
những hệ tư tưởng cũ.
3. Sự lên ngôi của Hệ giá trị
a) Đặc
điểm của thế giới hiện đại
Như
trên đã nói, thay đổi không ngừng là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy nhất
của thế giới hiện đại. Con người trong thời đại mới buộc phải không ngừng vận
động để thích nghi với các thực thể khác. Tốc độ phát triển của thế giới được
đó bằng thước đo dựa trên những yếu tố hiện thực của các quốc gia phát triển và
do đó, thay đổi để thích nghi là nhiệm vụ vô cùng khó khăn nhưng không thể trốn
tránh của các nước đang và kém phát triển. Trong một môi trường vừa hợp tác vừa
cạnh tranh sâu sắc, nếu một dân tộc có năng lực cạnh tranh kém sẽ ngày càng ít
cơ hội để phát triển. Như vậy, đồng thời với các cơ hội được mở ra, toàn cầu
hóa cũng tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa các nước đang phát triển với các nước
phát triển trong quá trình mở cửa, hội nhập.
Đa
phương hóa quan hệ là đặc điểm cơ bản thứ hai của con người trong thế giới hiện
đại. Gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng, người ta nói nhiều đến
hội nhập quốc tế trên tất cả các mặt của cuộc sống như là một điều kiện tiên
quyết cho phát triển, một xu thế tất yếu mà không một quốc gia nào có thể đứng
ngoài. Trong chiến lược phát triển của các quốc gia, đa hương hóa quan hệ là
một trong những mục tiêu cơ bản nhất. Toàn cầu hóa làm cho thị trường của mỗi
quốc gia được mở rộng ra phạm vi quốc tế, nhờ đó quan hệ mua bán hàng hóa và
dịch vụ được tăng lên nhanh chóng. Chưa bao giờ mối quan hệ của các quốc gia
được mở rộng như trong bối cảnh hiện nay và sự phát triển của mỗi quốc gia gắn
liền với các quốc gia khác vì lợi ích chung của tất cả các bên.
Trình
độ dân trí ngày càng cao là đặc điểm cơ bản nữa của thế giới hiện đại. Tốc độ
phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ là minh chứng rõ nét nhất cho sự
phát triển của tri thức con người. Ngày càng được xã hội hóa, quốc tế hóa và
toàn cầu hóa qua đó, vốn tri thức này tác động tới mọi mặt của đời sống kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội của từng quốc gia. Thông tin, tri thức được phổ
biến rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới và do đó, gắn kết con người với nhau,
kết quả là các quốc gia tác động qua lại lẫn nhau, chịu ảnh hưởng của nhau ngày
càng sâu sắc. Hơn nữa, trình độ dân trí ngày càng cao làm cho con người dần dần
nhận ra giới hạn của thế giới xung quanh. Họ cũng nhận ra và trực tiếp hay gián
tiếp phổ biến những giá trị toàn cầu, trong đó đặc biệt quan trọng là những giá
trị cá nhân. Đó chính là động lực của các cuộc cách mạng về tư tưởng.
b) Sự
áp đặt tư tưởng và sự hình thành hệ giá trị
Mặc dù
có sứ mệnh quan trọng là giúp con người tổ chức các hành vi trong cuộc sống, hệ
tư tưởng không phải không có những giới hạn, mà trước hết là những giới hạn về
thời gian, về tính thích hợp và đặc biệt là tính phổ biến. Sai lầm cơ bản của
chúng ta là không hiểu được những giới hạn ấy. Chúng ta luôn có xu hướng nghĩ
hộ người khác, một người nghĩ cho muôn người. Trong cuộc sống, có những vấn đề
mang tính sống còn, mang tính chiến lược cần đến những nhận thức cá nhân đặc
biệt để vận động và tổ chức mọi người giải quyết. Thế nhưng sẽ hoàn toàn sai
lầm nếu biến nhận thức cá nhân thành công cụ chế sẵn để áp đặt cho mọi người.
Nếu ai đó tự cho mình có cái quyền sáng tạo ra hệ tư tưởng và dùng quyền lực để
phổ biến áp đặt nó cho xã hội, thì về thực chất kẻ đó đã đẩy cả cộng đồng đi
theo hướng thụ động và tước đoạt cảm hứng nhận thức của toàn xã hội. Dĩ nhiên,
trên thực tế, nhiều quốc gia, nhiều cộng đồng đã có hệ tư tưởng của mình. Nhưng
đó không phải là kết quả của một mà nhiều người, của toàn xã hội, kết quả của
việc lựa chọn, sự sàng lọc tự nhiên những cái có lý trong tư tưởng của các cá
nhân. Nó khác xa với sự áp đặt tư tưởng bằng cách dùng các phương tiện công
cộng nhằm gây ra tính không đối xứng về nhận thức của con người. Chúng tôi muốn
nhấn mạnh rằng, áp đặt hệ tư tưởng lên con người và tiêu diệt khả năng tự do
nhận thức, tự do tư tưởng, tự do hiểu biết của con người là biến con người
thành những kẻ bị nô dịch về tư tưởng.
Chúng
tôi đánh giá rất cao luận văn của ông Joseph Stiglitz, người đoạt giải Nobel kinh
tế năm 2001 về tính không đối xứng của thông tin. Tuy vậy, chúng tôi cho rằng
tính không đối xứng của thông tin không chỉ bắt nguồn từ quá trình nhận thức tự
nhiên, mà còn từ sự truyền bá quá nhiều những ý tưởng cá nhân. Chúng tôi không
cho rằng bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào được quyền tự đặt ra một hệ tư
tưởng. Chúng ta có quyền truyền bá tư tưởng của mình nhưng không được lạm dụng
điều này bởi nó sẽ tạo ra tính không đối xứng của thông tin, và càng không được
phép biến tình trạng này thành phổ biến. Trái lại, chúng ta cần phải làm cho
mọi người hiểu rằng tư tưởng là công cụ để nhận thức, và ngày nay mỗi người đều
phải là nhà tư tưởng. Nói đúng hơn, mỗi người phải trở thành nhà tư tưởng của
chính mình, của chính hành động của mình, vì lợi ích của mình.
Vậy
trong thời đại ngày nay, cái gì sẽ thay thế hệ tư tưởng, khi nó không còn đóng
vai trò chủ đạo nữa? Theo chúng tôi, đó là hệ giá trị. Nếu như hệ tư tưởng là
tập hợp các tín điều thì hệ giá trị là tập hợp các tiêu chuẩn. Những đòi hỏi
của xã hội mới chính là áp lực buộc hệ tư tưởng phải nhường chỗ cho hệ giá trị,
với tư cách là tác nhân định hướng tiến bộ và dân chủ hơn. Trái với bản chất
giáo điều của hệ tư tưởng, các tiêu chuẩn luôn luôn thay đổi cùng với cuộc
sống. Rõ ràng việc thay đổi các tiêu chuẩn dễ dàng hơn nhiều so với thay đổi
các tín điều và cái gì dễ thay thế hơn thì nó thích hợp với cuộc sống hơn.
Tóm
lại, theo chúng tôi, con người sẽ không bao giờ quay lại các hệ tư tưởng mà sẽ
xây dựng một tập hợp các giá trị từ các tiêu chuẩn thông thường của đời sống.
Tính phổ biến của các giá trị sẽ tạo nên hệ thống giá trị, và hệ thống giá trị
tạo ra sự đồng nhất của các giá trị. Nói cách khác, hệ thống giá trị sẽ là tư
tưởng của đời sống hiện đại.
4. Toàn cầu hoá và Sự hình
thành hệ giá trị toàn cầu
Không
ai có thể phủ nhận được rằng toàn cầu hóa đem đến cho nhân loại, cả những nước
phát triển lẫn những nước chậm phát triển, những cơ hội phát triển và cả những
thách thức vô cùng to lớn. Ngày nay, tất cả các quốc gia, do quá trình toàn cầu
hóa, có mặt trong nhau, chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Chính trong quá trình toàn cầu
hóa mà thế giới bỗng nhiên nhận thức ra các giá trị chung mà con người cần phải
có để chung sống và phát triển. Do đó, toàn cầu hóa đối với lịch sử nhân loại
cũng có giá trị như thuyết tương đối của Einstein trong lịch sử khoa học. Toàn
cầu hóa càng sâu sắc bao nhiêu thì hệ tư tưởng sẽ càng phải bộc lộ tính khu trú
cá nhân của nó. Ở đây, xin lưu ý rằng cần phải phân biệt hệ giá trị với nền văn
hóa. Chúng ta đều biết rằng mỗi cộng đồng nhỏ đều có bản sắc riêng với các giá
trị văn hóa của mình. Nhưng khái niệm cộng đồng ngày càng mở rộng nên sẽ có
những tiêu chí văn hóa khác nhau, những nền văn hóa khác nhau. Con người chứa
trong mình nhiều hệ tiêu chuẩn văn hóa khác nhau để điều chỉnh những đối tượng
và quan hệ sinh hoạt khác nhau. Cho nên có thể nói rằng không có chuẩn mực văn
hóa cho sáu tỷ người, trong khi đó nhân loại vẫn luôn luôn cần và trên thực tế
vẫn tồn tại những chuẩn mực chung. Dĩ nhiên, bên cạnh chuẩn mực chung còn có
chuẩn mực riêng.
Chuẩn
mực riêng để phân biệt người này với người kia, cộng đồng này với cộng đồng
kia, còn chuẩn mực chung là thứ để con người chung sống. Trong đời sống hằng
ngày, chuẩn mực chung ngày càng cao lớn lên cùng với sự mở rộng của khả năng
giao lưu. Hiện nay, các quốc gia đang phát triển mới chỉ đặt ra nhiệm vụ hội
nhập về kinh tế mà chưa quan tâm đến việc tạo cho con người năng lực hội nhập
về mọi mặt.
Trong
bài Toàn cầu hóa về văn hóa chúng tôi đã đề cập đến những tác động khác nhau
của toàn cầu hoá. Ở đây chỉ xin nhắc lại rằng toàn cầu hóa về văn hóa đang làm
lan truyền trên khắp thế giới những giá trị phổ biến như nhân quyền, dân quyền,
dân chủ, tự do... đồng thời cũng làm thay đổi tính chất của các quan hệ xã hội.
Khi đó, các dân tộc, các cộng đồng giao lưu với nhau thông qua các hệ giá trị,
các quyền lợi và đặc biệt là các tiêu chuẩn văn hóa. Trong quá trình đó, sự phổ
biến các giá trị dân chủ là xu thế tất yếu và toàn cầu hóa buộc các dân tộc,
các tôn giáo khác nhau phải ngồi lại cùng nhau tìm ra các tiêu chuẩn chung sống
của toàn nhân loại.
Kết luận
Như
vậy, giá trị của các hệ tư tưởng chỉ có tính chất tương đối, mang tính lịch sử.
Tư tưởng và hệ tư tưởng không phải là những giá trị bất biến, càng không phải
là những tín điều để tôn thờ, nó đang và sẽ bị thay thế bởi hệ giá trị, là một
hệ thống các tiêu chuẩn để quy định, định hướng và tổ chức hành vi của con
người trên phạm vi toàn cầu.
Thế
giới đang thay đổi từng ngày, từng giờ và toàn cầu hóa đang phổ biến khắp thế
giới những thước đo mới, những tiêu chuẩn mới. Những tiêu chuẩn chung đó chính
là cơ sở hình thành hệ giá trị toàn cầu hệ giá trị sẽ đóng vai trò chi phối,
kiểm soát hoạt động của con người. Vì thế, trong thời đại ngày nay, nhiệm vụ
của các chính thể là nắm bắt sự hình thành của hệ giá trị và hướng sự phát
triển của đất nước cho phù hợp với hệ giá trị đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét