Trần Văn Chánh
Những năm gần đây,
nhiều vấn đề lịch sử nói chung hay nhân vật lịch sử nói riêng đã được giới
nghiên cứu sử học xem xét lại, nhờ vậy vấn đề triều Nguyễn hay một vài nhân vật
lịch sử nổi bật như vua Gia Long, các cụ Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Nguyễn
Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh… cũng đã được đánh giá lại trong một tinh
thần thông thoáng cởi mở hơn xưa rất nhiều, và việc làm nầy đều được mọi tầng
lớp trong xã hội hoan nghênh tán đồng.
Có lẽ từ giờ trở đi,
nhân dân Việt Nam khỏi phải mất công tranh cãi nhau dài dòng về tư cách tốt xấu
của cụ Lê Văn Duyệt hay cụ Phan Thanh Giản nữa.
Nghe tin cụ Lê Văn Duyệt được
dựng tượng đồng, cụ Phan Thanh Giản được đánh giá tốt lại như thế, chắc không
ai mừng gì riêng cho cá nhân các cụ, vì dù sao các cụ cũng đã ra người thiên cổ
từ lâu, nhưng mừng cho nhân dân địa phương tại những nơi quê hương xứ sở của
các cụ có được những tấm gương sáng rạch ròi để mà hãnh diện và noi theo.
Và ở một đằng khác,
mừng cho giới sử học ngày nay đã thoát ra được thời kỳ dài mông muội của chủ
nghĩa giáo điều để có được những nhận thức sáng suốt đúng đắn hơn về một số vấn
đề liên quan đến lịch sử và nhân vật lịch sử, nhờ thế đã xác nhận lại lần nữa cho
chắc nịch những điều mà toàn dân thật ra đã có nhận thức từ lâu.
Những sự đánh giá lại
như thế mặc dù rất đáng hoan nghênh, nhưng nếu xem xét bằng thái độ khiêm tốn
khách quan trung thực, người ta có lẽ không nên hào hứng hiểu theo nghĩa các cụ
vừa được những kẻ hậu sinh “xá tội”, mà phải hiểu theo chiều khác là việc
buộc tội hồ đồ của một số người đánh giá sai trước đây đã được bỏ qua, không
cần nhắc lại để trách cứ, vì ở đây, với tinh thần sử học chân chính, không nên
nhấn mạnh đến sự hơn thua hay dở hoặc tìm cách phô trương uy tín cho phe nhóm
trong những cuộc tranh luận liên quan vấn đề quan điểm nhận thức, mà cần nhất
một thái độ trung thực và quảng đại hướng tới tương lai, bởi có cả một thời kỳ
khá dài, vì những lý do cũng thuộc lịch sử, liên quan đến chính trị nhất thời,
khái niệm về tự do trong nghiên cứu học thuật nói chung và sử học nói riêng là
một điều nếu không xa lạ thì vẫn còn rất mù mờ.
Trong một hoàn cảnh
sinh hoạt như thế, tư duy về mọi vấn đề liên quan đến học thuật tư tưởng của
các văn nhân-học giả tất nhiên đã phải chịu những hạn buộc khắt khe mà bây giờ
lần lần họ mới nói ra, như trường hợp giáo sư sử học Phan Huy Lê mãi mấy năm
gần đây mới khai thật (trên tạp chí Xưa Nay) nhân vật Lê Văn Tám
chỉ là do người tiền bối bậc thầy ông là cố giáo sư Trần Huy Liệu sáng tác ra
để động viên phong trào kháng chiến…
Nghĩ cũng có chỗ đáng
thương cảm cho giáo sư Trần Huy Liệu, cho đến phút lâm tử mới “dám” trối trăng
lại sự thật, nhưng như thế thì nên gọi ông là nhà giáo dạy sử yêu nước, nhà
cách mạng đáng tôn kính hơn là nhà sử học, bởi bản chất của sử học, nếu đã có
chữ “học” trong đó rồi thì phải tôn trọng sự thật, nhằm khám phá ra sự thật qua
lớp bụi thời gian đi cùng với những diễn biến phức tạp, coi chân lý lịch sử như
là một trong những tiêu chí hàng đầu của mọi quá trình tìm tòi-nghiên cứu, vì
nếu không như thế thì cũng không cần duy trì phân môn phương pháp sử học trong
khoa sử học để làm gì. Điều này có nghĩa, viết sử thì không thể muốn nguệch
ngoạc cái gì trong đó theo ý chí chủ quan của mình cũng được, cho dù có nhân
danh bất kỳ một yêu cầu đặc biệt nào khác!
Trong tinh thần sử học như thế, mặc
nhiên chúng ta cũng chấp nhận mọi sự tranh luận tự do để tìm ra các sự thật
truyền lại cho thế hệ sau. Sự thật là một lẽ, còn bao biếm khen chê là một lẽ,
nhưng khi đánh giá một nhân vật hay sự kiện lịch sử thì cũng phải dựa trên sự
thật. Không phải vì yêu thương cụ Phan Thanh Giản mà nói cụ cái gì cũng tốt,
cũng như không phải vì ghét ông Hoàng Cao Khải vì lý do ông hợp tác với thực
dân Pháp mà cho ông cái gì cũng xấu.
Đã có thời gian, trong
giới nghiên cứu văn-sử học, tức trong cái môi trường tiêu biểu nhất của nền văn
hóa một dân tộc, phàm hễ ai bị đặt vào cái thế “phản diện” thì đều bị gọi bằng
“y”, bằng “hắn”, như vua Gia Long khi chưa được nghiên cứu kỹ cũng bị nhà
nghiên cứu văn-sử học nổi tiếng TC gọi là “hắn” trong một bài dẫn nhập cho tập
thơ chữ Hán Nguyễn Du. Tương tự như thế, về phương diện sự kiện lịch sử, cái
cách viết sử “ta thắng địch thua”, hoặc cho cuộc nổi dậy nào cũng là phong trào
nông dân mang tính cách mạng tiến bộ chống lại triều đình phong kiến, vốn được
khuôn định trong quan điểm về đấu tranh giai cấp, cũng là một lối viết sử thiếu
tinh thần khách quan cần được xem xét lại.
Chính vì loại thiên kiến nêu trên mà
người ta cứ cho phàm hễ thuộc về nhân vật anh hùng Quang Trung thì phải ngon
lành hơn nhân vật lịch sử Nguyễn Ánh, triều đại Nguyễn Quang Trung ưu việt hơn
triều đại Nguyễn Gia Long, đơn giản chỉ vì Nguyễn Huệ xuất thân nông dân,
Nguyễn Ánh là kẻ đối đầu của Nguyễn Huệ, trong khi đó hoạt động của Quang Trung
mãi đến ngày hôm nay vẫn còn phải tiếp tục tìm hiểu, có những khoảng khuất lấp
cần soi sáng dần qua những cứ liệu lịch sử ngày một thêm phong phú.
Quan điểm về đấu tranh giai cấp, đáng
được coi là một phát hiện quan trọng của phương pháp luận sử học, và cho vài
khoa học xã hội khác nữa, thay vì được sử dụng một cách hợp lý-có chọn lọc theo
đúng giá trị thật của nó, và như ước vọng của những người phát hiện ra nó, góp
phần vào việc soi sáng bức tranh lịch sử, đã có thời kỳ dài được coi là công cụ
độc tôn duy nhất đúng để giải thích mọi hiện tượng lịch sử.
Sự đề cao quan điểm
độc tôn này rõ ràng là không phù hợp với phương pháp sử học đích thực, vì nếu như
vậy mà cho là phù hợp thì tất cả những nhà sử học lỗi lạc thời xưa như Tư Mã
Thiên, và thời cận-hiện đại như Arnold Toynbee (1852-1883), Will Durant
(1885-1981)… chắc là họ đã trình bày và diễn giải lịch sử trật lất hết, còn
sách giáo khoa về môn lịch sử ở các nước Anh, Pháp, Mỹ, Ấn Độ… không theo quan
điểm đấu tranh giai cấp có lẽ cũng đều lệch lạc và không xài được tất.
Chúng ta chấp nhận mọi
sự tranh luận với nhiều ý kiến khác nhau, nhưng cũng chỉ nhắm vào mục đích tôn
trọng sự thật lịch sử. Nếu có kèm thêm mục đích giáo dục quần chúng thì cũng
không nên để thoát khỏi cơ cở tôn trọng sự thật, bởi trong thực tế lịch sử của
một dân tộc vốn đã có biết bao tấm gương tốt để noi, gương xấu để tránh, bài
học lịch sử thành công hoặc thất bại để rút tỉa, thì không cần gì phải thêu
dệt, như đã thêu dệt chuyện Mai Thúc Loan khởi nghĩa năm 722 vì “nạn cống vải”
sang nhà Đường Trung Quốc (xem Nghiên Cứu Và Phát Triển, số 2 (67).
2008), chuyện Lê Văn Tám chống Pháp tẩm xăng làm đuốc nhảy vào kho xăng Thị
Nghè năm 1946 (xem tạp chí Xưa Nay, tháng 10.2009)…
Nếu vì một lý do quá
đặc biệt và bất đắc dĩ phải thêu dệt, vì quyền lợi công chúng, cũng thuộc vấn
đề lịch sử, thì sau khi giai đoạn lịch sử đặc biệt đã qua rồi, cũng phải trả
cho sự thật được trở về… Nếu vì lý do tuyên truyền giáo dục quần chúng,
có thể viết thêm các thể loại dã sử, giai thoại về nhân vật lịch sử (như kiểu
viết Tang thương ngẫu lục, Linh Nam dật sử, Tây
Sơn thuật lược, Việt sử giai thoại…), mà không cần đưa những
nội dung có tính huyền thoại vào sách giáo khoa dạy cho học trò vì yếu tính của
sách giáo khoa là sự thật khoa học.
Có một quy luật, dường như chung nhất:
không có tự do tư tưởng thì đừng mong có một ngành nghề nào phát triển được, từ
âm nhạc, thi ca, phim ảnh, cho đến các khoa học tự nhiên, và sử
học.
Việc các cụ Lê, cụ Phan, cụ Nguyễn
Trường Tộ, cụ Trương Vĩnh Ký… trong một thời kỳ khá dài bị một bộ phận giới sử
học quan phương đánh giá xấu thường được người dân Việt Nam hiểu một cách thô
sơ qua việc xóa bỏ tiểu sử của họ trong sách giáo khoa; các tượng thờ, tên
đường, tên trường học mang tên các cụ cũng bị xóa bỏ tại nhiều địa phương khác
nhau, vì lý lịch các cụ phần nhiều đều có liên quan mật thiết đến triều Nguyễn,
thời kỳ thực dân Pháp, hoặc với đạo Công giáo.
Nhìn chung, người dân
phần nhiều không nghiên cứu kỹ sử sách nhưng họ đều lấy làm hoang mang kinh
ngạc trước việc một số cụ đang tốt bỗng nhiên hóa xấu. Bởi chỉ cần phán
đoán theo lương tri thông thường không phải thông qua nghiên cứu sâu xa như
Viện Sử học, ai cũng biết những người như cụ Lê Văn Duyệt được nhân dân trân
trọng thờ phụng hương khói chuyên cần, như cụ Phan Thanh Giản từ bỏ cả mạng
sống (cái quý nhất ở cá nhân con người) khi vì tình thế bức bách khách quan
phải giao thành cho giặc để tránh cho sinh linh đỡ bị tàn sát, như cụ học giả
Trương Vĩnh Ký trong và ngoài nước đều kính trọng dựng tượng thờ… thì không thể
là những người tồi tệ phản dân hại nước cho được.
Do vậy, nếu có những
sự đánh giá cẩu thả sai lạc về các cụ trong một thời của một số người nào đó
trong giới sử học hoặc chính quyền (chứ không phải của cả giới sử học hoặc của
tất cả mọi người trong chính quyền) thì điều nầy gợi ý cần phải coi lại
triệt để phương pháp và thái độ nghiên cứu lịch sử, từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm cần thiết trong tương lai khi cần áp dụng kiến thức và tư duy lịch
sử soi xét, đánh giá những vấn đề hoặc nhân vật lịch sử khác.
Điều quan trọng là
những người đưa ra các đánh giá phải không được xuất phát từ bất kỳ một quan
điểm giáo điều nào, cũng như ít nhất họ phải dựa trên cơ sở sử liệu đầy đủ đã
được thẩm tra kỹ, và một mặt khác đôi khi họ cũng phải có tư cách-nhân cách
tương đương hoặc cao hơn các đối tượng nhận sự đánh giá của họ. Một người viết
được vài ba bài viết trên báo hoặc tập tiểu luận nhỏ về sử học, khi nhận xét về
cụ Phan Thanh Giản chẳng hạn, ít nhất cũng phải biết để cân nhắc cụ là một
người ăn học đàng hoàng, văn hay chữ tốt, đỗ Tiến sĩ với chất lượng cao thật
sự, và từng giữ chức Tổng tài Quốc sử quán tổ chức biên soạn Khâm định
Việt sử thông giám cương mục (53 quyển) vốn được coi là một bộ sử Việt
biên soạn cẩn thận và đồ sộ nhất từ trước đến giờ.
Có một vấn đề cũ mèm
được nói nhiều nhất có lẽ trong các giới nghiên cứu văn học và lịch sử, nhưng
lại luôn bị áp dụng một cách lúng túng sai lạc do ảnh hưởng nặng nề của tệ giáo
điều, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử mà về mặt áp dụng để nghiên cứu văn học-sử
học thì quen gọi bằng cụm từ “quan điểm lịch sử cụ thể”. Mác nói rằng không ai
được chọn thời để sinh ra cũng như không ai được quyền lựa chọn lực lượng sản
xuất cho mình, nói nôm na là khi người ta sinh ra thì nhiều cái đã có trước,
không tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của bất kỳ ai.
Đó cũng là một khía
cạnh quan trọng của cái gọi là bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử mà con người hầu
như không thể thoát ra được. Ở một chỗ khác ông viết: “Quan điểm của tôi cho
rằng sự phát triển của hình thái kinh tế của xã hội có thể coi như quá trình
của tự nhiên và lịch sử của tự nhiên. Cho nên so với mọi quan điểm khác, quan
điểm của tôi có thể ít quy trách nhiệm cho cá nhân hơn về những quan hệ mà xét
theo nghĩa xã hội, cá nhân đó trước sau vẫn là sản vật, dù cho về mặt chủ quan
cá nhân đó có thoát khỏi những quan hệ ấy như thế nào chăng nữa” (Về
những quy luật kinh tế trong chủ nghĩa xã hội, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1975,
tr. 12).
Mác cũng nhận định
thật tài tình “lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi mục
đích của bản thân mình” (C. Mác và Ph. Ăngghen, Gia đình thần thánh hay
là phê phán sự phê phán có tính chất phê phán, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1971,
tr. 163).
Nếu xét theo quan điểm đại loại như trên
thì triều Nguyễn được dựng nên ứng vào thời kỳ sung mãn nhất của cuộc cách mạng
khoa học-kỹ thuật thế kỷ 19. Việc phát minh ra chiếc máy hơi nước giải phóng
sức sản xuất cùng với việc khám phá thêm các đường hàng hải mới đã dẫn đến sự
bành trướng của chủ nghĩa thực dân lúc đó đang cần thêm rất nhiều nguyên liệu,
nhân công và thị trường tiêu thụ.
Đây là sự diễn biến
tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của lịch sử chủ nghĩa tư bản thế
giới. Nếu Pháp không dòm ngó Việt Nam trong lúc nầy thì cũng sẽ có một nước Bồ
Đào Nha hay Y Pha Nho nào khác. Rủi thay, thực dân Pháp đã đặt tầm ngắm
một cách thuận tiện vào Việt Nam giữa lúc trong nước còn đang chiến loạn nhiễu
nhương, hai thế lực Nguyễn Ánh và nhà Tây Sơn quần thảo nhau kịch liệt một mất
một còn. Trong lúc núng thế gặp được một số đoàn truyền giáo khi đó cũng đang
muốn triển khai việc mở đạo hứa giúp, lẽ tất nhiên Nguyễn Ánh phải xem đây là
một cơ hội, dù có thể là “một cái xấu cần thiết”.
Những đoàn truyền giáo
nầy ngược lại đang cần tranh thủ sự ủng hộ vừa của chính quốc vừa của những ông
chúa tể bản xứ, trong khi chủ nghĩa tư bản phương Tây cũng cần dựa vào những
thế lực nầy để mở rộng các thị trường thuộc địa, Nguyễn Ánh thì cần súng ống
tàu chiến đánh Tây Sơn, thế là một sự kết hợp nhuần nhuyễn trúng khía đã xảy ra
một cách khách quan để thỏa mãn nhu cầu của tất cả các bên liên quan.
Việc đầu tiên và cấp
bách Nguyễn Ánh cần làm là diệt được quân Tây Sơn trước đã bằng bất kỳ phương
tiện nào, bởi mối thù “chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung”, chứ hoàn toàn
không cố ý muốn cầu thân với Pháp. Khía cạnh ngẫu nhiên của hoàn cảnh còn nằm ở
chỗ ông là người theo tổ tiên vào lập nghiệp ở miền Nam trước nên có nhiều cơ
hội tiếp xúc nhiều hơn với các nhà truyền giáo lúc đó đang cần liên lạc, tranh
thủ sự che chở của ông để truyền đạo. Diệt được Tây Sơn rồi mọi việc sẽ tính
sau, đó là mục tiêu cấp thời mang tính sách lược tình huống của vị vua sáng lập
triều Nguyễn.
Nói Nguyễn Ánh “cõng
rắn cắn gà nhà” là không đúng với thực tại lịch sử khách quan, cũng như nói
Alêchxăng đơ Rôt hay Bá Đa Lộc làm môi giới giữa Pháp với triều Nguyễn là những
tên thực dân phản động lại càng sai lầm hơn về mặt quan điểm lịch sử. Bằng cớ
là sang thời Minh Mạng (từ 1920), Thiệu Trị, các vị vua con vua cháu nầy chẳng
những không hợp tác với Tây mà còn thực hiện chính sách giết đạo tàn khốc
(chứng tỏ không thân Pháp) để giải quyết cái di sản trớ trêu của lịch sử, và
chỉ khoảng thời gian đó các nhà vua mới có thể dám làm như vậy (dù không phải
việc đúng, tốt), do mối ân tình giữa vua cha (Nguyễn Ánh) với Bá Đa Lộc cùng
một số tướng tá người Pháp coi như đã sạch nợ giang hồ.
Ngay như vua Quang Trung đại phá được
quân Thanh trong trận Đống Đa (1789) mùa xuân năm Kỷ Dậu cũng vậy, nhiều tài
liệu mới phát hiện gần đây cho biết một phần quan trọng là nhờ nhà vua đã biết
sử dụng khéo léo các lực lượng hải khấu ở biển Đông (xem những tài liệu và phát
hiện của Nguyễn Duy Chính, đăng trên tạp chí Nghiên Cứu và Phát Triển về
đề tài Quang Trung). Trên thế giới cổ kim, không ít thành tích lẫy lừng được
người đời ca tụng của một số nhân vật lịch sử đã được làm nên không phải lúc
nào cũng bằng những con đường chính quy chính thống bằng phẳng, vấn đề chỉ là
sự thật lịch sử đã được phơi bày trong các bộ chính sử ở mức độ thế nào
mà thôi.
Tương tự như vậy và mở
rộng vấn đề ở một cấp khái quát hơn, nếu xét trên quan điểm lịch sử, tạm lấy
thế kỷ thứ 19 làm mốc thí dụ, chủ nghĩa tư bản xuất hiện và bành trướng dưới
hình thái chủ nghĩa thực dân là hậu quả tất yếu của cuộc cách mạng khoa học-kỹ
thuật thế kỷ 19; tiếp theo, phong trào cộng sản là hậu quả tất yếu phản ứng lại
chủ nghĩa tư bản man rợ thời kỳ đầu, nó lại đã kết hợp một cách “khế cơ” (ăn
khớp) với phong trào cách mạng dân tộc dân chủ và giải phóng dân tộc vừa
chống phong kiến vừa chống thực dân ở một số nước thuộc địa trong thời kỳ “giải
thực” toàn thế giới.
Kết quả là một số
chính quyền mang danh nghĩa chủ nghĩa cộng sản đã được thành lập, như trường
hợp của Trung Quốc, Việt Nam và vài nước khác… Cứ thế lịch sử tuần tự nhi tiến,
“trùng trùng duyên khởi”, chắc chắn sẽ diễn biến đến những giai đoạn tiếp theo
như có thể hiện thấy, với những thứ di sản thuộc loại ngoài ý muốn (đi kèm theo
những mặt tốt của các cuộc chiến tranh giải phóng tộc) vẫn đang cần tiếp tục
giải quyết, như tệ nạn đặc quyền và tình trạng tham nhũng…. ở một số nước.
Riêng trường hợp các
nước thực dân xâm lược, hiểu như một sự thể tất yếu không thể tránh khỏi của
một thời kỳ phát triển nhất định trong lịch sử thế giới, trong khi đặt ách
thống trị lên các quốc gia nhược tiểu, để phục vụ trước hết quyền lợi cho chính
chủ nghĩa thực dân chứ không phải cho các dân tộc bản xứ bị nô lệ, nó cũng để
lại, dù muốn hay không, một số di sản hữu ích “xài được” cho các dân tộc bị trị
như khoa học-kỹ thuật, giáo dục, y tế, hành chính, các cơ sở hạ tầng nhà cửa
đường sá cầu cống hiện đại, và đặc biệt là những tư tưởng về tự do dân chủ và
cách mạng.
Khi cục diện thế giới
thay đổi, các dân tộc bị trị đến lượt mình đương nhiên đã sử dụng những thứ
“xài được” đó chống lại ách áp bức bóc lột của chính thực dân, buộc các nước
nầy phải buông tay bằng nhiều cách khác nhau (thông qua hoặc không cần thông
qua cuộc chiến tranh giải phóng) để trao trả lại quyền độc lập tự chủ cho
mình.
Trở lại cách nhìn thực
tế lịch sử của một dân tộc hay một cộng đồng xã hội nào khác, có thể mượn cách
diễn đạt khá tinh tế của ông Trần Bạch Đằng trong “Lời giới thiệu” sách Lê
Văn Duyệt với vùng đất Nam Bộ (Bán nguyệt san Xưa & Nay và
NXB Trẻ, 2002): “Người viết sử có thể phân chia diễn biến của quá khứ thành
nhiều chương, hồi, theo một chủ điểm yêu ghét nào đó, có khi còn được gọi là
chính thống; nhưng bản thân lịch sử thì nó triển khai đan xen với vô số mâu
thuẫn và cách xử lý mâu thuẫn, không từ trong một kịch bản có sẵn nào cả”.
Trong chiều hướng “giải hoặc” và “xét
lại” phổ biến hiện nay để loại bỏ dần những cách đánh giá chính thống nhưng cực
đoan và trái quan điểm lịch sử vì thiếu tính toàn diện, một số nhân vật cận đại
ở Trung Quốc như Tăng Quốc Phiên, Tưởng Giới Thạch… có thời kỳ bị lên án cực độ
ở lục địa, nay đã được người Trung Quốc nhìn nhận lại theo chiều hướng cởi mở
hơn, và tư tưởng-tác phẩm của họ cũng đã được phổ biến khá nhiều trên các kệ
sách ở mọi nơi.
Ngày nay, ở Trung Quốc không ai còn viết
truyện hay làm phim để lên án Tần Thủy Hoàng là tàn bạo (mặc dù tàn bạo thật),
Tào Tháo là gian hùng (mặc dù gian hùng thật)… làm gì nữa, vì như thế cũng vô
ích. Trái lại một số đạo diễn có tài đã cố gắng dựng lên những bộ phim truyện
hay mô tả toàn diện tính cách của một số nhân vật, đặt họ đúng vào lại bối cảnh
cụ thể của một thời kỳ lịch sử nhất định tương ứng với những phong tục tập quán
cùng lề lối tư duy-hành động phản ánh cách hành xử của con người trong cả một
giai đoạn lịch sử nhất định nào đó, do vậy mà Tần Thủy Hoàng hoặc Tào Tháo cũng
có được những nét dễ thương đầy nhân tính song song với tính cách tàn bạo hoặc
gian hùng không ai chối cãi của họ.
Bộ phim Công
tử Bạc Liêu được dựng ở Việt Nam khoảng hơn 10 năm trước sở dĩ không
thành công là vì những người thực hiện mải lo phản ảnh khía cạnh tiêu cực của
công tử nhắm vào chủ đề chống phong kiến nhiều hơn là nhìn “công tử” ở góc độ
khách quan là một con người có gốc đại địa chủ thích ăn chơi nhưng tính tình hào
sảng khả ái của vùng đất mới Nam Bộ.
Đánh giá nhân vật lịch sử vì thế rất cần
có sự cân nhắc thận trọng nhiều mặt trong tất cả mọi trường hợp. Ở Việt Nam,
ngoài các nhân vật lịch sử lớn như Nguyễn Ánh (gắn với cả triều Nguyễn), Lê Văn
Duyệt, Phan Thanh Giản… có lúc bị đánh giá nhầm, còn có những nhân vật khác như
Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh… có thời gian khá dài cũng bị kết
án oan về một số mặt cơ bản, khiến cho những con đường hay trường học mang tên
họ đều bị xóa bỏ hết, và học sinh trong các nhà trường hoặc không biết gì về họ
hoặc phải học hai môn Văn học, Lịch sử với những quan điểm và cách trình bày
cực kỳ phiến diện.
Việc viết sử nói chung cũng thế, phải
thận trọng giống như đánh giá nhân vật lịch sử. Ngoài nguyên tắc phải tôn trọng
sự thật lịch sử trên cơ sở thu thập-phân tích-khảo chứng tư liệu và tôn trọng
phương pháp sử học thuần túy, không để bị chi phối bởi bất kỳ giáo điều chính
trị nào, người viết sử còn phải vận dụng chính xác cái gọi là “quan điểm lịch
sử cụ thể” như đoạn trên của bài viết nầy đã cố gắng diễn giải.
Ngoài ra họ còn phải
hiểu đời một cách sâu sắc, thông đạt chính trị và nhân tình, hiểu được lý do
các hoạt động của loài người, có tầm nhìn bao quát về về tâm lý cuộc sống…, và
tất cả những điều đó phải được thể hiện với một lương tri hay trực giác bén nhạy
tối thiểu. Xét về các phương diện nầy, cho đến nay chúng ta vẫn có thể tạm coi
bộ Việt Nam sử lược của cụ Trần Trọng Kim là một bộ “tín sử”
hay nhất trong những bộ sử hiện có, bởi nó đã được cụ Trần căn cứ trên nhiều
tài liệu rồi viết ra theo kiểu thấy sao nói vậy bằng cách nghĩ cách diễn đạt
thận trọng riêng của mình với một lương tâm khá trong sáng, trong đó cụ không
hề có một lời khen ai hoặc mạt sát ai quá đáng, tuy rằng nó vẫn chưa đạt tiêu
chuẩn khoa học đầy đủ của một bộ thông sử có tính toàn quốc.
Như khi bình luận về
tư cách của Phan Thanh Giản, tác giả nói rất gọn mà thấm thía: “Bấy giờ ông
đã già, đã ngoài 74 tuổi, làm quan thật là thanh liêm, nhưng chẳng may gặp phải
khi nước có biến, biết thế mình không làm gì được, đem tấm lòng son sắt mà báo
đền ơn nước cho hết bổn phận người làm tôi”. Phải công tâm thừa nhận có một
thời học sinh rất thích học môn Lịch sử một phần là nhờ bộ Việt Nam sử
lược, với cách trình bày các sự kiện lịch sử vừa ngắn gọn mạch lạc vừa hấp
dẫn, lời lẽ ôn nhu khiêm tốn, bình phẩm có mức độ, đọc hay như một bộ tiểu
thuyết trường thiên của dân tộc. Còn hiện nay, người ta than rằng học sinh
không thích học môn Lịch sử, dốt sử, thì cũng là một điều dễ hiểu và nên xem
lại cách viết sử như là một hướng tiếp cận để nghiên cứu giải quyết vấn đề.
Tuy nhiên, lịch sử vốn thường là những
diễn biến được mô tả lại bằng ngôn ngữ của kẻ chiến thắng, nên trong những cuộc
“cải triều hoán đại”, nó rất khó giữ được tính trung thực khách quan hoàn
toàn. Chẳng hạn, trong những bộ chính sử do Quốc sử quán triều Nguyễn
biên soạn khó thể tìm được chỗ nói tốt cho triều Tây Sơn Nguyễn Huệ, cũng tương
tự như lịch sử do các cơ quan chính thức của nhà nước Trung Quốc viết ra thì
hầu như việc gì của lực lượng Quốc Dân Đảng làm trong giai đoạn Tưởng Giới
Thạch cầm quyền cũng đều tệ hại phản động tất tần tật.
Trong suốt thời kỳ Mao
Trạch Đông cầm quyền, việc gì của Mao làm cũng được ca tụng, thành công gì
trong các hoạt động khoa học, chính trị, văn hóa… cũng đều được quy công cho sự
lãnh đạo anh minh của Mao. Các sách khoa học tự nhiên thời đó từ địa chất học
cho đến thực vật học đều phải tôn Mao làm minh chủ. Phải đợi cho đến khi
Mao Trạch Đông qua đời năm 1976 nhiều sự thật lịch sử mới được phơi bày ra ánh
sáng, hàng ngàn người bị kết án oan đưa đi lao động khổ sai trong thời Cách
mạng Văn hóa được trả tự do, phục hồi danh dự; bản thân Mao cũng được đánh giá
lại, nhưng vì nhiều lý do chính trị phức tạp tế nhị vẫn chưa phơi bày đầy đủ,
mặc dù hầu hết mọi chuyện đều đã được biết qua các lời truyền miệng hay công bố
trên mạng Internet…
Thực tế khó chối cãi
nầy đặt ra một vấn đề hết sức tế nhị, là liệu có thể có được những bộ sử trung
thực ở đâu đó trong những nước có hoàn cảnh tương tự Trung Quốc, trong khi cái
gọi là “chính sử” đều do các nhà đương cuộc tổ chức biên soạn bằng kinh phí nhà
nước, còn tư nhân thì hầu như chắc chắn không ai được tài trợ để làm công việc
nầy cả. Trong chiều hướng thực tế nói chung như thế, chúng ta có thể khẳng định
một cách tương đối rằng, lịch sử thành văn khá trung thực thường chỉ có thể có
được trong hai điều kiện: hoặc thời kỳ lịch sử đang nói phải ở thời gian cách
xa với nhà cầm quyền đương đại, hoặc việc viết sử là do tư nhân độc lập đảm
trách một cách tự nguyện như trường hợp của Tư Mã Thiên đối với bộ Sử
ký có một không hai trong lịch sử sử học của nhân loại.
Mặc dù những lý do nêu
trên về điều kiện nghiệt ngã để có những bộ sử trung thực, về mặt lý thuyết
chúng ta vẫn còn có thể nêu thêm những thực tế khác để xem xét vấn đề một cách
tường tận thấu đáo thêm. Có một điều kiện lý tưởng vẫn còn nêu ra được, đó là
nhà cầm quyền cũng phải trung thực nếu thật sự vì dân, nhận thức sự trung thực
trong sử học như một điều quan trọng cần thiết có lợi ích lâu dài cho cả dân
tộc, theo nghĩa lịch sử là tấm guơng soi chung và là những bài học kinh nghiệm
cần để rút tỉa cho công cuộc xây dựng tương lai đối với tất cả mọi thành viên
công dân, và đối với đất nước, mà nếu trung thực thì tốt hơn là làm ngược lại.
Để có sự trung thực,
lẽ tất nhiên phải coi chân lý khoa học và lợi ích của nhân dân là luật pháp tối
thượng, có tầm nhìn thần thông quảng đại, rộng mở, do đó sẽ không nhìn lịch sử
hay nhân vật lịch sử bằng một tâm địa nhỏ nhen tầm thường. Một thực tế khác có
thể cho thấy các nhà viết sử phương Tây dường như phóng khoáng hơn. Nếu các nhà
sử học phương tây (chủ yếu Pháp, Mỹ) cận hiện đại mà viết sử với một tâm hồn
nhỏ nhen, không tôn trọng sự thật lịch sử hoặc chỉ vì những cái danh hão hay
quyền lợi dân tộc hẹp hòi, chắc chắn họ sẽ bôi nhọ một số nhân vật lịch sử Việt
Nam vốn từng là nguyên nhân sự chiến bại của quốc gia họ trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân việt Nam.
Trái lại, họ thường đã
mô tả một số nhân vật lịch sử Việt Nam như Nguyễn Thái Học, Hồ Chí Minh, Võ
Nguyên Giáp… với một lòng kính ái đặc biệt, đưa tên vào từ điển, một phần cũng
nhờ vậy mà nước Việt Nam đến nay được rất nhiều quốc gia khác trên thế giới
biết đến một cách trân
trọng.
Trái lại với những thí dụ vừa kể trên
đây là trường hợp một số sử gia Trung Quốc từ lâu và nhất là gần đây đã cố gắng
bóp méo sự thật lịch sử, “tự viên kỳ thuyết” (vo tròn các sự kiện cho khớp với
lý luận chủ quan của mình) để chứng minh các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là
thuộc chủ quyền Trung Quốc, tự đặt ra đường chữ U chín đoạn để chiếm hữu hầu
hết diện tích biển Đông. Làm như vậy trước mắt Trung Quốc nếu có thể lấy được
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vĩnh viễn (?) thì đó chỉ là một lợi ích
nhỏ thiển cận, hậu quả xấu lâu dài là làm cho cả nhân dân Trung Quốc tập nhiễm
tư tưởng thực dụng thô thiển cùng thói quen nói láo, và như thế đã góp phần
tiêu cực phá hoại cả nền văn hóa Trung Quốc vốn có rất nhiều nhân tố truyền
thống tốt đẹp mà tổ tiên người Trung Quốc với những Khổng Tử, Mạnh Tử,
Lão Tử, Tuân Tử… đã dày công xây đắp trong suốt mấy ngàn năm lịch sử. Đây là
một trường hợp lợi bất cập hại khá rõ ràng có thể đem ra dẫn chứng cho lối làm
việc bằng tâm địa nhỏ nhen không tôn trọng chân lý khoa học và lịch sử.
Đến đây có thể thấy rõ, trong khá nhiều
trường hợp, sự chi phối của những quyền lợi chính trị nhất thời mang tính phe
nhóm đôi khi có hại khi đặt toàn bộ vấn đề lợi ích ở mức độ dân tộc hay nhân
loại trên một bình diện rộng lớn hơn, và có thể tạm rút ra một hệ luận: công
việc nghiên cứu lịch sử, để có được tính trung thực cần thiết, đòi hỏi sự tôn
trọng tính độc lập tự do của các sử gia, dù sử gia đó là tư nhân (như Trần
Trọng Kim…) hay cán bộ đang hoạt động trong những cơ quan chuyên trách sử học,
giáo dục của nhà nước cũng vậy.
Nói chung hơn, theo
kinh nghiệm hoạt động của Giáo sư Dân tộc học Nguyễn Đức Từ Chi dạy lại cho các
học trò của mình thì muốn nghiên cứu lĩnh vực nào, tốt nhất đừng công tác tại
cơ quan chuyên môn về lĩnh vực ấy… “Ngoài việc tránh được những phiền phức
do cơ chế quản lý, việc nầy còn mang lại một lợi ích lớn hơn, đó là người
nghiên cứu sẽ tránh được lối mòn, sự khuôn sáo, định kiến, hạn chế sự ảnh hưởng
bởi “tâm lý đám đông” trong nghiên cứu khoa học xã hội… Tất nhiên điều nầy đòi
hỏi người nghiên cứu phải có bản lĩnh khoa học vững vàng” (xem Nguyễn Thị
Hậu, “Vài lời cuối sách” trong quyển Khoa học soi sáng lịch sử của
Nguyễn Đức Hiệp, NXB Lao Động, 2007, tr. 356).
Tại Việt Nam, chúng ta đã có khá nhiều
tấm gương chứng tỏ được mối nguy hại một thời của lối viết sử dựa trên những
quan điểm gọi là chính thống nhưng giáo điều, đầy định kiến, dẫn đến việc đánh
giá sai lầm nhiều nhân vật lịch sử mà nay phải đánh giá lại, như giới sử học
gần đây đã cố gắng làm và đã làm thành công đối với nhân vật Lê Văn Duyệt, Phan
Thanh Giản…
Ngoài khía cạnh quan điểm ra, nhiều sự
kiện thuộc về sự thật lịch sử thể hiện trong các sách giáo khoa cũng cần được
xem xét lại để điều chỉnh. Phong cách viết sử theo lối tự hào dân tộc hẹp hòi
quá đáng hay theo kiểu “tốt khoe xấu che” “ta thắng địch thua”cũng cần phải
loại bỏ. Trong một bài viết (tạp chí Tia Sáng số 9, ngày
5.5.2008), Giáo sư-NGND Nguyễn Văn Chiển (đã quá cố), khi nói về tính dũng cảm,
khiêm tốn và trung thực của người trí thức, đã nhắc lại câu chuyện nhà sử học
Trần Huy Liệu về việc trước khi mất, ông Liệu đã nói thật với học trò của mình
rằng Lê Văn Tám không phải con người có thật mà chỉ là một hình ảnh ông dựng
lên để động viên phong trào kháng chiến mà thôi!
GS Chiển, cũng trong ý
tưởng đòi hỏi tính can đảm trung thực phải có của người trí thức, đã nhắc khen
ông Nguyễn Mạnh Tường và ông Trần Đức Thảo, hai nhân vật trí thức Việt Nam lỗi
lạc có thời gian vì trung thực đóng góp ý kiến xây dựng cho việc chung nhưng
không hợp quan điểm “chính thống” mà bị “rút phép thông công”, phải chịu oan
chịu khổ trong hầu suốt quãng đời còn lại (riêng Trần Đức Thảo sau khi chết,
vài năm trước đã được minh oan công khai).
Như vậy để nói tiếp ý kiến GS-NGND
Nguyễn Văn Chiển, thiết tưởng đến lúc nầy, sau khoảng nửa thế kỷ, một vài nhân
vật khác trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm cũng như toàn bộ vấn đề Nhân Văn Giai
Phẩm cũng nên được giới nghiên cứu văn-sử học đưa vào bàn hội nghị đánh giá lại
một cách xác đáng công khai để rút ra thêm được nhiều bài học quý báu khác nữa
cho cả nước rút tỉa. Làm được như vậy, giới văn học và sử học Việt Nam ghi thêm
được một thành tích chói lọi mới, đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, và chắc chắn sẽ được mọi người mọi giới cả trong lẫn ngoài nước hoan
nghênh nhiệt liệt vì góp phần làm thay đổi hẳn bầu không khí hoạt động văn
hóa-tư tưởng theo chiều hướng tích cực nhất.
Cái “vùng cấm” Nhân Văn Giai Phẩm
(1956-1958) không có văn bản giấy tờ tồn tại đúng năm chục năm nay trên thực tế
đã được cả xã hội giải cấm dần vì trong những khoảng thời gian gần đây, không
ít tác giả thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã có tác phẩm được in, thậm chí còn
được cả giải thưởng. Lai rai đâu đó người ta đã bớt ngại khi công khai nhắc đến
tên tuổi của nó, thậm chí còn mạnh dạn khen ngợi, như có thể kể trường hợp ý
kiến của luật gia Lê Hiếu Đằng (Phó chủ tịch UBMTTQ VN- TP. HCM, Chủ tịch HĐQT
Quỹ Bảo trợ Giáo dục và Đào tạo TP. HCM) phát biểu trên báo Tuổi Trẻ (16.5.2008)
khi người ta hỏi ông về thơ của một số tác giả trong nhóm:
“Hiện nay thì tôi
đang… lai rai thơ Phùng Quán, Trần Dần. Đọc “Chống tham ô lãng phí” của Phùng
Quán làm năm 1956 mà thấy còn nguyên tính thời sự, như mới làm đây thôi. Tôi
thuộc lòng bài “Nhất định thắng” của Trần Dần khi còn là sinh viên, giờ đọc lại
vẫn thấy đầy xúc động… Phùng Quán, Trần Dần là những nhà thơ tài năng của Việt
Nam. Họ là những người đi trước, thơ của họ mang tính dự báo rất lớn. Cái hay
chính là ở tính dự báo đó. Cứ lật lại những trang thơ của họ mà xem, những điều
họ nói cách nay mấy chục năm bây giờ đang xảy ra, nhức nhối, đau lòng”.
Tại đây xin được mở thêm dấu ngoặc,
trong Từ điển Văn học (bộ mới, 2004), một công trình đang được
xã hội đánh giá cao, nhiều tác giả thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã được đưa
vào giới thiệu một cách trân trọng, như Hữu Loan, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh
Tường, Phùng Quán, Trần Dần…, nội dung cũng nêu sơ lược những nhân vật nầy đã
bị kỷ luật như thế nào sau khi tham gia vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Nhưng
quyển từ điển giá trị nêu trên lại cũng còn có chút úy kỵ tránh né khi nó không
cung cấp cho người sử dụng từ điển mục từ “Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm” (trong khi
những nhóm khác như Đông Dương Tạp Chí, Hàn Thuyên, Nam Phong, Sáng Tạo, Tân
Dân, Thanh Nghị, Tri Tân đều có đủ), nên khi cần tra cứu thì chẳng có để mà
tra.
Nếu các sinh viên học
sinh vì tiếp tục thắc mắc cứ phải đi tra tìm ở những tài liệu công bố “lậu” ở
đâu đó thì có khi lại nguy, hiểu theo nhiều nghĩa “nguy” khác nhau. Sự thiếu
sót có lẽ bất đắc dĩ nầy tuy có thể thông cảm được, nhưng dù sao như thế cũng
làm cho một bộ từ điển lớn đáng tiêu biểu cho cả nước lại bị sai quy cách của
khoa từ điển học, và điều nầy càng cho thấy sự cần thiết phải sớm đem vấn đề ra
công khai phân tích mổ xẻ, hầu tránh cho giới nghiên cứu văn học-sử học những
thứ nhếch nhác rụt rè không cần thiết. Làm văn học-sử học mà nhếch nhác rụt rè
thì thật khó coi và không thể chấp nhận được, vì không còn chi để gọi là “học”
nữa! Chung quy cũng vẫn là cần sự can đảm, lòng trung thực và tính liêm chính
trí thức của các nhà nghiên cứu văn học-sử học.
Một số sự kiện lịch sử hay cách đánh giá
nhân vật lịch sử, nếu được điều chỉnh đúng, sẽ dẫn đến một số hệ quả thực tế
tích cực tất nhiên trong đời sống người dân cũng như trong một phần của công
tác giáo dục, như trường hợp tên Kim Ngọc đã được chọn đặt tên đường và tên vài
trường học ở Vĩnh Phú khoảng sáu năm trước, sau khi quan điểm về khoán
sản phẩm trong nông nghiệp của ông Kim Ngọc có lúc bị kết án sai lầm đã được
đánh giá lại tỏ rõ. Tương tự như thế, tượng Phan Thanh Giản và trường học mang
tên Phan Thanh Giản đang được phục hồi tại Bến Tre, tượng Lê Văn Duyệt đã được
an vị tại lăng Ông Bà Chiểu hồi mấy tháng trước…
Chúng ta ngày nay có
thể cần những điều đó vì lý do chính trị này khác nhưng các vị được tôn vinh
dường như cũng không mấy cần. Với cái đà nầy, nếu nghĩ một cách trung thực, rồi
đây người ta cũng phải nghĩ đến việc đổi tên các công viên, rạp hát, trường học
mang tên Lê Văn Tám thành công viên Lê Văn Duyệt, công viên Gia Long, rạp
hát Đào Tấn, trường Trương Vĩnh Ký, trường Phạm Quỳnh… chẳng
hạn…
Về mặt khách quan, cũng là sự thật lịch
sử và chân lý cuộc đời, kẻ thù không phải lúc nào cũng xấu, còn “phe ta” thì
luôn tuyệt vời. Hơn nữa cũng không có ai là kẻ thù thật sự hay vĩnh viễn, kể cả
trong cùng một đất nước một nòi giống hay giữa dân tộc nầy với dân tộc khác.
Người Mỹ phải rút quân thảm hại trong cuộc chiến tranh Việt Nam năm 1975, trước
đó họ có thể làm mọi cách để ngăn chặn “làn sóng cộng sản”, dội bom miền Bắc,
nhưng không có sử gia hay nhà báo nào của Mỹ viết sách để bôi nhọ Việt cộng, mà
chỉ cố gắng phân tích mọi khía cạnh để “biết người biết ta”, cho hiểu được tại
sao họ thất bại ở Việt Nam mà thôi.
Đứng về mặt nào, người
Mỹ như thế cũng có khía cạnh “mã thượng” tuy chưa phải thật sự anh hùng. Trong
lịch sử Việt Nam, đã có trường hợp Lê Lợi-Nguyễn Trãi đánh tan xong giặc Minh
còn cấp cho các tướng địch 500 chiếc thuyền với quân lương đầy đủ để chạy về
cho tiện, cũng là một hành vi đáng xem là “mã thượng” của người xưa. Ngày nay,
nếu có thấy hàng ngàn công nhân Trung Quốc qua Việt Nam lao động phổ thông
không có giấy phép, họ vì nghèo khổ bức bách mà phải làm như vậy, nếu có muốn
đuổi họ về, thì cũng nên đuổi về theo các mã thượng như khi Nguyễn Trãi
làm bài Bình Ngô đại cáo vậy thôi.
Có một phong cách viết
sử không cần bôi bác kẻ thù, mà cứ việc xảy ra thế nào kể lại thế ấy theo đúng
những tài liệu chữ viết hoặc truyền khẩu đã thu thập được. Có thể kể trường hợp
sách Bản triều bạn nghịch liệt truyện của học giả Giá Sơn Kiều
Oánh Mậu, soạn trong năm Thành Thái thứ 13 (1901). Đây là sách của một ông quan
triều Nguyễn viết về những kẻ phản nghịch chống lại “bản triều”, nhưng cách
thuật chuyện và thể hiện các nhân vật phản diện lại khách quan sinh động, còn
cho thấy được những nét ưu điểm, khả ái và khí phách cá nhân của những kẻ bị
tác giả xếp vào thành phần phản loạn, như Lê Văn Khôi, Cao Bá Quát và rất
nhiều người khác…
Cuộc đời thực, tức cũng là lịch sử, luôn
phải có kẻ vầy người khác. Có kẻ xấu kẻ phản dân hại nước thì tính cách của
người tốt người yêu nước mới bộc lộ rõ và được tôn vinh. Anh hùng tạo thời thế
nhưng thời thế cũng có thể làm nên anh hùng. Nếu không có những cuộc loạn lạc
thời cuối Xuân Thu đầu Chiến Quốc thì cũng không có những học thuyết của Nho
gia, Đạo gia, Pháp gia… nở rộ, để lại những tinh hoa di sản tư tưởng của phương
Đông ngày hôm nay. Thời thế tức là cái hôm nay chúng ta gọi “bối cảnh lịch sử” mà
khi nghiên cứu bất kỳ một biến cố, phong trào, học phái nào, người nghiên cứu
cũng không thể không xét đến nơi đến chốn.
Tương tự như vậy, nếu
không có cái xấu của chủ nghĩa tư bản man rợ thế kỷ 19 thì cũng không có nhân
vật Mác và chủ nghĩa Mác xuất sắc; không có thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam
cũng không có một Phan Bội Châu hay một Hồ Chí Minh với sự nghiệp lẫy lừng…
Trong lịch sử Việt Nam từng có những hạng trí thức không dược dũng cảm cho lắm,
vì tình thế bức bách phải lưu vong chạy theo quân giặc cho yên thân, như Trần
Ích Tắc và Lê Tắc trong trận giao chiến với quân Nguyên đời Trần, nhưng họ cũng
chưa kịp làm điều gì đồi bại đến nỗi, chỉ mong “cẩu toàn tính mệnh ư loạn thế”.
Riêng Lê Tắc khi trốn
sang Tàu còn viết được bộ An Nam chí lược để đời, được một
người đương thời viết lời tựa khen là “không thua gì sách của Tư Mã Thiên và
Ban Cố hồi trước”, đã được cả Việt Nam và Trung Quốc in lại nhiều lần như một
sử liệu có giá trị tham khảo tốt. Nếu buộc Lê Tắc phải là một nhân vật anh
hùng, và trong bộ sử giá trị nói trên, phải nói xấu ít nhiều gì đó về kẻ thù
Trung Quốc lúc bấy giờ thì ngày nay chúng ta cũng không có bộ An Nam
chí lược…
Bình luận về con người trong lịch sử vì
thế không thể thiếu sự thông đạt chính trị nhân tình, và đức công bằng, luôn biết
đặt con người vào trong hoàn cảnh cá nhân cùng với những mối tương tác nhân quả
của các sự kiện chi phối bên ngoài, trên cái nền chung những bi kịch và nỗi
thống khổ của nhân sinh và trong cái trào lưu sinh hoạt bất tuyệt của cuộc đời,
từ đó có được quan điểm phóng khoáng mang chất triết lý sâu hơn về cuộc sống để
có thể tiếp cận với chân lý lịch sử một cách khách quan toàn diện hơn, góp phần
xây dựng một nền văn hóa hòa bình không mang tính sát phạt vì các kiểu thái độ
cực đoan, phiến diện, căm thù có tính nguyên thủy của loài người chưa văn minh.
Đó có lẽ cũng là thế
giới quan hình thành nên thái độ, cách nhìn cùng những ý kiến bình luận đánh
giá thâm trầm sâu sắc của Tư Mã Thiên (trong các bài “Tán”, bài “Tự”) đối với
một số nhân vật và sự kiện lịch sử tiêu biểu ở Trung Quốc cổ đại, làm cho bộ Sử
ký trở thành một bộ sách sử-triết-văn chương khuôn mẫu bất hủ.
Văn hóa là cái gì còn tồn lại bền lâu
trong tâm trí, bàng bạc trong cách ứng xử hiện tại của con người sau khi mọi sự
kiện, nhân vật, chế độ chính trị… đã qua đi. Mà bao nhiêu sự kiện, nhân vật,
chế độ chính trị quá khứ đều đã phải tuần tự cứ qua đi như thế trong trường kỳ
lịch sử, bất chấp cả không gian thời gian.
Nhân vật lịch sử không
nhất thiết phải là danh nhân, đều là con người nên có mặt tốt mặt xấu, có những
lúc yếu mềm lầm lỗi, rồi ai cũng ra người thiên cổ dù đi trong gió ngược hay
xuôi, nhưng tất cả đều có vai trò riêng trong một bối cảnh lịch sử nhất định.
Việc đánh giá lịch sử cũng như các nhân vật lịch sử nếu chính xác, sẽ có ý nghĩa
quan trọng đối với lớp người đi sau chứ không phải cho lớp người trước, hiểu
như là những bài học kinh nghiệm quý báu để rút tỉa áp dụng cho cuộc sống hiện
tại và tương lai lâu dài, vì thế phải được thực hiện một cách khách quan và
thận trọng, không nên để bị ảnh hưởng bởi bất kỳ định kiến hay loại quan điểm
chính trị thực dụng nhất thời nào.
Đến đây, chúng ta đã
lặp đi lặp lại khá nhiều cái gọi là rút tỉa kinh nghiệm lịch sử, thế thì những
con người hiện sống thực tế có thể học được những gì từ trong những bài học đã
có sẵn trong lịch sử? Trước hết, muốn học được điều gì thì lịch sử phải là lịch
sử của sự thật, của những sự kiện và biến cố có thật đúng như chúng đã diễn ra
trong quá khứ. Lịch sử được viết nên một cách giả dối do sự thêm thắt thêu dệt
hoặc tưởng tượng, gán ghép đầy định kiến thì không thể dùng để tham khảo học
hỏi gì được, nếu không muốn nói có hại.
Bài học lịch sử là cái
có sẵn, bất di bất dịch, điều quan trọng thuộc về cách con người biết tham khảo
nó sáng suốt ra sao để hướng dẫn cho những hành động trong hiện tại và hướng
tới xây dựng tương lai. Có những kinh nghiệm thành công và những kinh nghiệm
thất bại, y như lẽ thường tình thành bại của con người (không có gì xấu), trong
cách làm, cách hành xử liên quan đến việc trị nước tổng quát cũng như với từng
công việc cụ thể đã được áp dụng trong những tình huống khác nhau.
Kinh nghiệm nào nếu
biết áp dụng cũng đều tốt nhưng riêng những kinh nghiệm thất bại thì thường quý
hơn, trước hết giúp tránh được vết xe đổ của những người đi trước (tiền xa chi
giám). Chính vì lẽ đó công việc ghi lại lịch sử càng đòi hỏi gắt gao tính trung
thực, phải nêu đủ cả những chuyện xấu và những việc thất bại, kể cả “những cuộc
bại trận thê thảm cuả quân ta”… Trái lại, khuynh hướng cường điệu ca tụng khía
cạnh những võ công oanh liệt, lặp đi lặp lại quá nhiều, thường ít có giá trị
thực tế mà còn làm cho người ta trở nên kiêu mạn mất ý thức mất cảnh giác
vô cùng tai hại.
Chiến tranh là hành
động bất đắc dĩ nếu không muốn nói xuẩn ngốc, bởi nó luôn đem lại sự đau thương
chết chóc cho tất cả các bên tham gia chiến cuộc. Trong mọi cuộc chiến tranh
đều có kẻ thắng người thua, nhưng chiến công của một người hay nhóm lớn người nầy
lại là sự đau khổ và thua thiệt của nhóm người khác chiến bại, nên nếu đứng từ
góc độ nhân bản sẽ chẳng thấy có gì đáng để tự hào. Chiến tranh gây nên cái
cảnh “đống xương Vô Định đã cao bằng đầu”, hay “nhất tướng công thành vạn cốt
khô”… của biết bao thế hệ con người.
Ở Úc và Tân Tây Lan, người dân chọn ngày
25 tháng 4 hàng năm làm ngày Anzac, một lễ lớn mang tính dân tộc, với lễ hội
tưng bừng (còn hơn cả Quốc khánh Úc 26.1, Tân Tây Lan 6.2), không phải để kỷ
niệm chiến thắng mà để ghi nhớ chiến bại. Đó là một ngày vào năm 1915, trong
Thế chiến I, liên quân Úc-Tân Tây Lan đã đổ bộ vào Gallipoli của Thổ Nhĩ Kỳ với
hơn 8.000 lính Úc và 2.700 lính Tân Tây Lan bị thiệt mạng, và từ đó đến nay
nhân dân cả hai nước đều coi như một kinh nghiệm thất bại, tuy có bi hùng nhưng
nếu tránh được càng tốt, vì dù sao cũng là một chuyện đau thương chung cho cả
hai dân tộc.
Ở Hoa Kỳ, sau cuộc nội
chiến Nam Bắc năm 1865, các sĩ quan và binh sĩ dưới quyền của tướng Lee miền
Nam thua trận đã không bị giam giữ như tù binh chiến tranh. Những binh sĩ chết
trận của cả hai phe thắng bại đều được chôn xen kẽ trong cùng một khu mộ, nơi
có tấm bia ghi rõ “Nơi đây là chỗ nằm xuống của tất cả những người vì nước Mỹ”.
Hết chiến tranh thì không còn hận thù, mà bắt tay đoàn kết nhau ngay để cùng
nhau xây dựng hướng đến tương lai, đó cũng là một trong những nguyên nhân chủ
yếu giúp cho nước Mỹ mau trở thành một cường quốc thế giới.
Đọc lại câu chuyện cũ nước Mỹ sau khi
tướng Lee thua trận, ai trong chúng ta mà không cảm động đến rơi nước mắt:
“Tướng Lee đứng dậy, lần lượt bắt tay các sĩ quan trong Bộ Tham mưu của tướng
Grant (phe miền Bắc thắng trận), bắt tay tướng Grant, nghiêng mình chào tất cả
mọi người có mặt và bước ra khỏi phòng họp. Tướng Grant và ban sĩ quan tham mưu
đã đứng sẵn ở bao lơn trước căn nhà, nơi đôi bên nghị hoà. Khi ngựa tướng Lee
rảo bước đi qua, cặp mắt của hai vị tướng quân chạm nhau trong giây phút, họ
đồng ngả nón chào nhau. Trên bao lơn xung quanh tướng Grant và suốt trong sân
trước căn nhà lịch sử, sĩ quan và binh sĩ miền Bắc đều đưa tay chào kính vị
tướng bại trận quân đội liên hiệp miền Nam.
“Tin đồn đầu hàng của
tướng Lee tràn lan mau chóng như thuốc súng. Khắp nơi binh sĩ miền Bắc reo
mừng…. Thế nhưng tướng Grant nhanh chóng ra lệnh ngưng ngay tức khắc những biểu
lộ nỗi vui mừng của binh sĩ miền Bắc. “Rồi sẽ có ngày mừng chiến thắng”, tướng
Grant giải thích, “Nhưng không phải là ngày hôm nay. Quân đội miền Nam đã đầu
hàng. Chúng ta không được phép reo mừng trên chiến bại của họ”. Điều quan trọng
với tướng Grant là phải làm sao để thắng trận, đồng thời cũng phải gìn giữ cho
bằng được sự toàn vẹn tình cảm giữa những người cùng trong cộng đồng dân tộc
Hoa Kỳ.
Câu chuyện lịch sử vừa
kể lại trên đây đáng là một tấm gương tốt về hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù,
và những bài học lịch sử như thế mới thật sự lợi ích trong ý nghĩa giáo dục chủ
nghĩa nhân đạo và tinh thần nhân bản cho các thế hệ mai sau, thay vì hình ảnh
ngược lại là những trại cải tạo tập trung như nhà tù sau chiến tranh ở một số
nước khác, chỉ làm cho “oan oan tương báo”, “oán oán chập chồng”. Cũng không
như trong sách giáo khoa các môn văn-sử của ta, cứ in mãi tấm hình người lính
Mỹ cao lớn bị cô du kích Việt cầm súng áp giải, rồi lại còn đề thêm câu thơ “O
em du kích giương cao súng/ Thằng Mỹ lêu nghêu bước cúi đầu”. Làm thế thì ai
tin được chuyện “xóa bỏ quá khứ hướng về tương lai” như đường lối ngoại giao
Việt Nam đã từng khẳng định!
Viết sử là loại công việc công phu tốn
nhiều thời gian, ngoài tôn trọng sự thật trên cơ sở bám sát sử liệu còn đòi hỏi
phải có sự nghiền ngẫm sâu xa, nêu lên được những bài học tham khảo cho các thế
hệ hiện tại và tương lai, góp phần vun đắp nhân bản, nên không thể có sự tùy
tiện, định kiến, gán ghép bóp méo sự thật, buồn vui yêu ghét thất thường, nay
vầy nay khác, hay dựa dẫm quyền thế, xu phụ theo miệng nhà quan. Hai vợ chồng
nhà sử học lừng danh người Mỹ Will và Ariel Durant (Will sinh năm 1885) bỏ ra
đến 39 năm soạn bộ Câu chuyện của nền Văn minh (bản tiếng Anh
10 cuốn; bản tiếng Pháp 33 cuốn với trên 14.000 trang), như vậy mà vẫn cứ nơm
nớp lo sợ rằng mình chưa đủ tư liệu để tái hiện diện mục lịch sử một cách trung
thực.
Khi gần cuối đời, họ
đã viết thêm một quyển nhỏ cuối cùngBài học của Lịch sử như để thay
lời kết luận cho toàn bộ sách, đúc kết lại rằng thời nào nước nào trước kia
cũng có những kẻ loạn luân, độc ác; đâu đâu cũng có tình trạng độc tài, tham
nhũng, lộng quyền, cùng những thứ khác như bệnh dịch và chiến tranh…, song song
với những hành vi có tính cách xây dựng tích cực của loài người.
La Quán Trung mở đầu
tiểu thuyết lịch sử Tam quốc diễn nghĩa của mình bằng câu ngắn
gọn “Thiên hạ hết loạn lại trị, hết trị lại loạn…”, dường như đã thu tóm hết
được yếu tính phổ quát của lịch sử. Tuy nhiên con người vẫn chưa chịu bó tay
phó thác cho định mệnh, nên lịch sử cũng còn ghi lại được biết bao suy ngẫm, nỗ
lực, công trình văn hóa, vật chất của con người để nhằm phát huy những mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực. Đã có một số nước, số nơi nêu được những tấm gương
thành công trong việc không ngừng cải tiến những phương pháp và định chế cai
trị nhằm tạo lập sự ổn định khá hơn ít nhất trong phạm vi của nước họ để ổn
định xã hội, cải thiện cuộc sống người dân, hạn chế nạn độc tài, độc quyền,
bằng cách áp dụng khế ước xã hội dưới hình thức chấp hành chung bản hiến pháp
cùng những định chế dân chủ chính trị khác. Đó có lẽ cũng là bài học lịch sử
chung lớn mà một số dân tộc khác còn đang lao đao lận đận trong cảnh nghèo khổ
bệnh tật và trong các chế độ độc tài nên suy ngẫm, tham khảo và phấn đấu.
Hiểu lịch sử, theo nghĩa tích cực nhất
là để yêu thương hơn con người, tạo được mối đồng cảm, trên cơ sở thấy được
những mối dị biệt và hoàn cảnh khác nhau giữa các dân tộc, không phân biệt chế
độ chính trị, màu da, trình độ phát triển, từ đó thúc đẩy sự đoàn kết hợp tác
để cùng nhau chống chọi những thiên tai, bệnh tật, rủi ro đang đe dọa con người
mỗi lúc một thêm hung hãn dồn dập trong điều kiện của cuộc khủng hoảng môi sinh
toàn cầu hiện nay. Tấm lòng người viết sử vì thế cũng phải bao la, nhân đạo,
mới có thể đảm đương được sứ mệnh, và mới đủ trùm lên được những gì mà kho lịch
sử phong phú của quá khứ muốn khải thị lại cho con người.
Tuy nhiên, muốn rút tỉa được những kinh
nghiệm và bài học lịch sử như trên đã bàn để áp dụng cho cuộc sống hiện tại và
tương lai thì không thể không nói đến hiệu quả của việc học sử-dạy sử trong các
nhà trường từ tiểu học đến đại học. Đáng tiếc, tình trạng dốt sử của học
sinh-sinh viên Việt Nam đã và đang gia tăng ngày một thêm trầm trọng. Đây là
một hiện tượng đã được phát giác và cảnh báo từ khá lâu, như kết quả một cuộc
điều tra của Trường đại học KHXH&NV TP. HCM hồi năm 1999 cho thấy, với
1.800 người được hỏi, có tới 39% không biết Hùng Vương là ai; 49% không biết
Trần Quốc Toản là ai; và một báo cáo khác cho thấy 44% trên 468 sinh viên không
biết Chu Văn An là ai (xem Phan Thành Nhơn, “Việc phổ cập kiến thức lịch sử
hiện nay”, tạp chí Xưa Nay, 6.1999, tr. 27).
Trước tình trạng có vẻ
bi quan như trên, đã có biết bao nhà giáo, nhà sử học và các bậc thức giả cao
minh tâm huyết tham gia bàn luận một cách tương đối rốt ráo, trên các diễn đàn
báo chí, mà nếu tổng hợp lại, người ta sẽ có dư thừa ý kiến để biết được nguyên
nhân và giải pháp khắc phục, không cần chi thêm những cuộc hội thảo tổ chức
rườm rà tốn kém như ngành giáo dục đang muốn dợm làm. Trong số các nguyên nhân
được nêu ra, có nguyên nhân liên quan đến vấn đề đang xét, đó là quan điểm,
phương pháp và thái độ giáo điều trong hoạt động nghiên cứu sử học từ trước tới
nay.
Các nhà sử học vì thế
càng bị động tâm nhiều hơn do họ thấy tận mắt hậu quả: điểm thi môn sử thấp
không ngờ trong kỳ thi đại học-cao đẳng 2011 vừa qua, với kết quả hầu hết học
sinh đều đạt điểm không hoặc gần với điểm không, trên cả toàn quốc. Nhưng chính
họ cũng thuộc thành phần thủ phạm, hay ít nhất tòng phạm, của tình trạng bất
như ý như thế, qua những cuốn sách giáo khoa biên soạn độc quyền không đảm bảo
kiến thức trung thực về lịch sử, như mọi người đều biết.
Lý thuyết phân vân, giờ nói ra được một
phần sự thật, coi như cũng đợi điều kiện chín muồi của lịch sử mới “tát nước
theo mưa”, đã trễ nhưng chưa quá trễ, và còn đáng mừng, vì đã bắt đầu có những
tín hiệu lạc quan hơn, như lời khẳng định chân thật của giáo sư sử học Đinh
Xuân Lâm, người cũng từng chủ trì các sách giáo khoa môn sử cho một số cấp lớp
phổ thông trước đây:
“Từ lâu chúng tôi đã
rất đau đầu để chứng minh một cách khoa học và giản dị với các nhà quản lý giáo
dục là chúng ta đang hiểu sai về môn lịch sử. Đó không phải là một môn giáo
dục, tuyên truyền chính trị thông qua các sự kiện và con số, mà là một môn khoa
học với tất cả sự hấp dẫn và khó khăn của nó. Lịch sử cần được nghiên cứu và
trình bày một cách khách quan, không thiên kiến thì mới tạo ra sự hấp dẫn được.
Tôi dạy sử hơn nửa thế kỷ, tôi biết trẻ em đứa nào cũng yêu thích môn lịch sử.
Chính người lớn làm cho nó hết yêu”.
Nhưng người lớn là
ai? Ngoài các nhà quản lý giáo dục phải chịu trách nhiệm tương đối trực tiếp
ra, còn có các nhà sử học đầu đàn như ông không, và ai nữa, thì ông Đinh Xuân
Lâm chỉ dừng lại chỗ đó mà không chịu nói rõ!
19.5.2008-10.8.2011 -Theo
tạp chí Nghiên Cứu & Phát Triển, số 4 (87). 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét