Vương Trí Dũng
Một số người cho rằng Việt Nam mang ơn Trung Quốc. Đó
là một nhận thức không đúng. Ngay cả Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang
trong cuộc gặp với cử tri ngày 26-6-2014 cũng phát biểu rằng “mang ơn
thì có cách trả ơn chứ không áp đặt”.
Phát biểu như vậy vô tình tạo cớ cho Trung Quốc
trích dẫn rêu rao xuyên tạc. Những luận cứ sau đây sẽ minh chứng rằng
Việt Nam không mang ơn Trung Quốc.
1. Ngay từ ban đầu lãnh đạo Trung Quốc giúp Việt Nam
là vì lợi ích của chính Trung Quốc. Nếu Trung Quốc không có lợi,
lãnh đạo Trung quốc đã không giúp Việt Nam.
Thiết nghĩ không ai phản bác khẳng định trên. Chúng
ta chưa bàn đến giúp cái gì và giúp như thế nào. Nhưng rõ ràng nếu
không có lợi thì dứt khoát lãnh đạo Trung Quốc đã không giúp Việt
Nam.
2. Không phải tự nguyện hay do Việt Nam đề nghị, mà
lãnh đạo Trung Quốc buộc phải giúp Việt Nam vì lợi ích sát sườn
trực tiếp của chính Trung Quốc.
Điều này cũng quá rõ ràng. Chính quyền Mao Trạch
Đông sẽ không để cho một chính phủ Việt Nam thân Pháp hay thân Mỹ tồn
tại ở ngay sát nách mình. Mao Trạch Đông không chỉ không muốn mà thực
sự lo sợ nếu Việt Nam là đồng minh của Pháp hay nhất là của Mỹ.
Điều này chính lãnh đạo Trung Quốc bằng nhiều cách gián tiếp hay
trực tiếp đã gửi đi những thông điệp rất rõ ràng cho Pháp và Hoa Kỳ
biết. Bởi vậy, lãnh đạo Trung Quốc đã buộc phải giúp Việt Nam trong
kháng chiến chống Pháp và sau đó là trong chiến tranh chống Mỹ. Nếu
không phải Pháp, không phải Mỹ, mà là một quốc gia khác chẳng hạn
là Nhật hay Anh đến Việt Nam thì lãnh đạo Trung Quốc cũng sẽ chủ
động giúp Việt Nam để chống lại.
3. Lãnh đạo Trung Quốc không phải tình cờ hay chỉ
thông thường mà có chủ mưu sâu xa thâm độc trong lá bài giúp đỡ Việt
Nam. Lãnh đạo Trung Quốc giúp Việt Nam chống Pháp và Mỹ không chỉ
bảo vệ lợi ích của Trung Quốc trước sự đe dọa của Pháp và Mỹ mà
còn có mục đích chiếm đoạt thống trị Việt Nam.
Giúp Việt Nam không chỉ không cho Pháp Mỹ đến sát
nách Trung Quốc, không chỉ làm cho Pháp Mỹ sa lầy suy yếu để Trung
Quốc có thời cơ hùng mạnh, mà Mao Trạch Đông còn nhiều lần trắng
trợn tuyên bố với Tổng bí thư Lê Duẩn mục tiêu thống trị Việt Nam.
Cũng vì mục tiêu thống trị Việt Nam mà lãnh đạo
Trung Quốc đã buộc Việt Nam luôn phải chia cắt để không lớn mạnh.
Lãnh đạo Trung Quốc đã ép Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải lùi đến
vĩ tuyến 17 trong Hiệp định Genève 1954. Trong chiến tranh chống Mỹ,
lãnh đạo Trung Quốc tìm mọi cách ngăn cản Việt Nam giành chiến thắng.
Lãnh đạo Trung Quốc chỉ đạo Việt Nam chỉ đánh Mỹ đến cấp Trung đội,
ngăn cản Việt Nam nhận viện trợ của Liên Xô, không đồng ý để Việt Nam
đàm phán với Mỹ. Bằng nhiều hình thức và dưới mọi vỏ bọc, lãnh
đạo Trung Quốc đã làm suy yếu Việt Nam để thống trị Việt Nam.
4. Không chỉ vì bảo vệ lợi ích Trung Quốc trước
Pháp và Mỹ, không chỉ vì thống trị Việt Nam, Mao Trạch Đông có chủ
tâm thâm độc đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng. Đây là một dã tâm
diệt chủng.
Hành động diệt chủng của các bạo chúa Trung Quốc
được lịch sử Trung Quốc minh chứng. Mao Trạch Đông không cần che đậy
dã tâm diệt chủng ở Việt Nam bằng cách đánh Mỹ đến người Việt Nam
cuối cùng. Dã tâm điệt chủng của lãnh đạo Trung Quốc không chỉ đối
với Việt Nam, mà sau này họ đã thực hiện được một phần ở Campuchia
thông qua chính quyền ngu xuẩn tội phạm Pol Pot.
5. Làm cho Việt Nam phải kéo dài chiến tranh với Mỹ
để Trung Quốc có cơ hội chiếm đất Việt Nam. Nhân lúc Việt Nam có
chiến tranh, Trung Quốc đã di dời các cột mốc biên giới, đưa dân xâm cư
xâm canh, chiếm đoạt của Việt Nam nhiều trăm km vuông đất. Không chỉ
chiếm đất Việt Nam bằng con đường không vũ lực, vào thời điểm Việt
Nam bị chia cắt và suy yếu, Trung Quốc đã ngang nhiên mang quân đánh
chiếm Hoàng Sa của Việt Nam. Khi Việt Nam thống nhất, không còn cách
nào khác, Trung Quốc đã trắng trợn tiến hành chiến tranh chiếm đất
biên giới của Việt Nam.
Trong lúc Việt Nam phải đối phó với chiến tranh,
Trung Quốc đã lợi dụng di dời các cột mốc biên giới sâu vào lãnh
thổ Việt Nam. Bởi thế Ải Nam Quan lịch sử đã thuộc sâu vào lãnh thổ
Trung Quốc.Trắng trợn nhất là ở Thác Bản Giốc,Trung Quốc đã huy
động hơn 2000 người cả lính, cấp tốc xây dựng đập bê tông cốt sắt qua
nhánh sông, chiếm cồn Pò Thoong làm lãnh thổ, đồng thời di dời cột
mốc 53 từ trên núi phía bên kia sông sang quá nửa Thác Bản Giốc. Bởi
vậy phần đẹp nhất của Thác Bản Giốc sau Hiệp ước Biên giới 1999 đã
thuộc về Trung Quốc. Trung Quốc cho dân xâm cư xâm canh sang đất Việt Nam
nhiều năm để làm chuyện đã rồi khi phân định biên giới. Trung Quốc
giành giúp Việt Nam xây đập sông biên giới để chủ ý bịt phần phía
Trung Quốc, chỉ để một cống phía bờ Việt Nam, nắn hướng dòng chảy
sâu vào đất Việt Nam, sau nhiều năm xói mòn đã đổi thay dòng chảy.
Khi phân chia biên giới theo giữa hướng dòng chảy,Trung Quốc đã chiếm
được rất nhiều lợi thế, nhất là phần trên biển theo dòng chảy cửa
sông. Mưu mô chiếm đất Việt Nam của Trung Quốc không chỉ cho một vài năm,
mà cho hàng chục năm, cho cả thế kỷ.
Nhân lúc Việt Nam đang bị chia cắt thành hai miền đối
kháng, năm 1974 Trung Quốc đã mang quân đánh chiếm Hoàng Sa của Việt
Nam. Liên tục suốt các năm 1980 -1989, Trung Quốc tiến hành chiến tranh
xâm lược biên giới Việt Nam. Đỉnh điểm là ở Vị Xuyên Hà Giang trong
các năm 1984-1985,Trung Quốc đã chiếm mất Núi Đất của Việt Nam. Để
thực hiện mục tiêu chiếm đất Việt Nam, Trung Quốc đã tiến hành không
chỉ bằng mưu mô nham hiểm, bằng thủ đoạn trá hình gian xảo, mà còn
trắng trợn bằng chiến tranh vũ lực.
Xét về tổng thể, với mưu đồ sâu xa thâm hiểm biểu
hiện qua năm điểm chủ chốt nêu trên, có thể khẳng định rằng không
những Việt Nam không phải mang ơn Trung Quốc mà thực chất Trung Quốc
phải chịu ơn Việt Nam. Trung Quốc phải nợ Việt Nam vì những điểm sau:
1. Việt Nam đã giúp cho Trung Quốc không bị sự đe dọa
trực tiếp từ Pháp và Mỹ. Đặc biệt là Mỹ đã không thể biến Việt
Nam thành đồng minh để đặt căn cứ quân sự sát sườn Trung Quốc.
2. Việt Nam đã làm suy yếu đối thủ Pháp và Mỹ của
Trung Quốc. Nhất là Mỹ đã bị sa lầy và suy yếu trong chiến tranh
Việt Nam, tạo cơ hội cho Trung Quốc dưỡng sức phát triển.
3. Việt Nam đã trực tiếp bảo vệ Trung Quốc trên
trường quốc tế và đã mang đến cho Trung Quốc vai trò lãnh đạo quốc
tế to lớn khi Trung Quốc dương cao lá cờ giúp Việt Nam chống Pháp và
Mỹ.
4. Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam chỉ là kinh tế
và vũ khí. Còn Việt Nam đã bảo vệ lợi ích của Trung Quốc chính
bằng xương máu của nhân dân Việt Nam. Đó là điều không thể so sánh.
Sự viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam đã tạo cơ hội cho Trung Quốc
phát triển kinh tế và hiện đại hóa nền công nghiệp quốc phòng.
5. Trung Quốc đã xâm chiếm cả ngàn km vuông lãnh thổ
Việt Nam trên đất liền và biển đảo.
Khi Trung Quốc mang 60 vạn quân xâm lược Việt Nam vào
ngày 17-2-1979, là thời điểm bộc lộ toàn bộ âm mưu xấu xa của lãnh
đạo Trung Quốc dưới lá bài giúp đỡ Việt Nam. Từ thời điểm đó, CHXH
Việt Nam và CHND Trung Hoa không còn là anh em đồng chí, mà là kẻ thù
của nhau. Từ thời điểm đó giữa hai bên đã chấm dứt mọi tình nghĩa
ơn huệ. Bởi vậy, hãy đào sâu chôn chặt, và đừng bao giờ nhắc đến
giúp đỡ ơn huệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Điều cần phân biệt là nhân dân hai nước.Tình nhân ái
được Tạo hóa bẩm sinh trong mỗi cơ thể con người, ở tất cả các dân
tộc. Đó là điều thiêng liêng quý giá phải nâng niu chăm chút.
V.T.D
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét